Primary Menu
Secondary Menu

Sơ đồ tổng quan về Thiền Tôn

Dưới đây là kiến thức hệ thống về các loại Thiền trên thế gian, được trích từ Bản đồ tu Phật của Hòa thượng Thích Thiện Hoa.

A. PHẦN MỞ ĐẦU

Thiền là con đường thứ 5 trong số các con đường có thể tu tập để thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đây là con đường có mặt ở tất cả các tông phái và trường phái Phật giáo, ở tất cả các cấp độ tu tập của chúng sinh, có thể sự xuất hiện đó là trực tiếp hoặc gián tiếp.

Thiền Phật giáo phải được xuất phát từ Đức Phật, có nguồn gốc từ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Nếu không có chứng cứ này thì không phải của Phật giáo.

Xin mời đọc thêm:

TẠI SAO GỌI LÀ THIỀN TÔN ?

(Phần này trích từ Bản đồ tu Phật – HT Thiền Tâm)

Thiền tôn là một tôn phái của Phật giáo lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.

Chữ “Thiền” là do chữ “thiền na”, một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa, và dịch nghĩa là định lự (định các tư lự). Hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định.

Có chỗ giải : Chữ “thiền” xưa dịch là “tư duy”, nay dịch là “tịnh lự”. Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm những đối tượng của tâm thức (tức là quán). “Tịnh lự” có nghĩa là để tâm vắng lặng không cho khởi các vọng tưởng tư lự (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.

Chữ “định” nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn.

Hợp hai chữ Thiền và Định, chúng ta có một nghĩa chung như sau : Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chơn lý.

Phương pháp thiền định có hai cách :

1. Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là “tham thiền”, như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v…

2. Tập trung tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì, như quán bất tịnh, quán từ bi v.v…, nên cũng gọi là “quán tưởng”.

Có chỗ gọi là tu “chỉ quán” hay tu “định huệ”. Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tức là Định. Quán là quán sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ.

“Chỉ” là nhơn, mà “Định” là quả.

“Quán” là nhơn, mà “Huệ” là quả.

B. CÁC LOẠI THIỀN ĐỊNH

Thiền định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại đạo, có thứ thiền của phàm phu, có thứ thiền của Tiểu thừa, có thứ thiền của Đại thừa.

Vì thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn, chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi lạc vào đường nguy hiểm.

D. ĐẠI THỪA THIỀN

Trong mục này, chúng tôi sẽ dành riêng toàn tập để nói về Đại thừa thiền. Nội dung của tập này sẽ gồm những mục chính sau đây :

  • Các pháp môn của Đại thừa thiền
  • Sự truyền thừa của các Tổ trong phái Thiền tôn, ở Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam.
  • Các ma chướng trong lúc tu thiền
  • Các kinh sách nói về thiền 

Trước khi đi sâu vào các mục nói trên, chúng ta hãy hiểu qua thế nào là Đại thừa thiền ?

Đại thừa thiền là pháp tu thiền của bực Đại thừa, cũng gọi là xuất thế gian thượng thượng thiền. Yếu tố căn bản của Đại thừa thiền là trí huệ. Thiền giả phải lấy trí huệ để tự quan sát tâm tánh. Nếu thiếu trí huệ, thiền giả khó được kết quả khi tu theo Đại thừa thiền.

Về phương pháp tu chứng và truyền thọ của Đại thừa thiền có ba cách :

– Cách thứ nhất : Đây là các loại tam muội , mà hành giả căn cứ theo các kinh sách Đại thừa tu luyện, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Giác ý tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội, v.v…

– Cách thứ hai : Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi, để chỉ giáo. Trong Phật giáo gọi lối thiền này là “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham cứu này Thiền giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm.Thiền Tham Thoại Đầu (Tổ Sư Thiền) thuộc phương pháp này

– Cách thứ ba : Với cách này, chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được. Trong cách các tổ sư, khi có người đến cầu pháp, không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi.

Như dòng Lâm tế, khi có người đến cầu đạo, Thiền sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét. Như dòng Quy ngưỡng, các vị tổ sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ tử. Như dòng Vân môn, có vị tổ chỉ nói một chữ mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ. Như có ngài chỉ đãi nước trà (ngài Triệu Châu) hay mời ăn cơm mà người đến cầu đạo được giác ngộ.

– Có người lại ngắm bóng mình dưới nước, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo và cười (hổ khê tam tiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liểu, hay lấy gậy đập cục đất cho bể tan mà liền ngộ đạo.

Thật là thiền cơ mầu nhiệm, người ngoài không thể suy nghĩ, luận bàn được.

Muốn cho người cầu đạo được kết quả các vị truyền pháp phải hội đủ ba điều kiện sau đây :

– Biết căn cơ người cầu đạo.
– Biết thời tiết đúng lúc truyền đạo.
– Biết phương pháp nào thích hợp.

Trong ba phương pháp nói trên. Nếu truyền pháp không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết quả.

I. CÁC PHÁP MÔN CỦA ĐẠI THỪA THIỀN

II. HỆ THỐNG TRUYỀN THỪA CỦA CÁC TỔ TRONG PHÁI THIỀN TÔN

III. CÁC MA CHƯỚNG TRONG LÚC TU THIỀN

Chúng tôi xin trích hết đoạn “Ngũ ấm ma” trong kinh Lăng Nghiêm, để giúp cho quý vị tu thiền, biết trước những điều chướng ngại để đối trị.

IV. CÁC KINH SÁCH NÓI VỀ THIỀN

Kinh sách nói về thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, để quý độc giả khỏi bỡ ngỡ trong khi nghiên cứu để học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số kinh sách thiết yếu sau đây :

1. Kinh Lăng Già:

2. Kinh Lăng Nghiêm

3. Kinh Viên Giác

4. Kinh Pháp Bảo Đàn

5. Đại Thừa Chỉ Quán

6. Tiểu Chỉ Quán

7. Đồng Môn Chỉ Quán

8. Lục Diệu Pháp Môn

9. Kinh Kim Cang

10. Truyền đăng lục

11. Thiền gia ngữ lục

12. Tọa thiền chỉ nam

13. Tông cảnh lục (của ngài Tống Diên Thọ thiền sư)

14. Luận Đại thừa khởi tín (của Bồ tát Mã Minh)

15. Vô môn quán (của Tống Tôn Thiện thiền sư)

16. Bích Nham Lục (của Phật quả Viên ngộ)

17. Thung dung lục (của Vạn tùng Lão nhơn)

18. Thiên Lâm Vĩnh gia tập (của Huyền Giác)

19. Thiền tôn chỉ nam (của vua Trần Thái Tôn)

v.v…

E. PHẦN TỔNG KẾT

Thiền định có nhiều loại, nhưng tóm lại, có thể chia làm hai loại lớn : Chánh định và tà định, hay phàm phu thiền và thánh nhơn thiền, hoặc ngoại đạo thiền và Phật giáo thiền.

Thiền định của ngoại đạo :

Những người theo lối thiền định này do tâm niệm không chơn chánh (phiền não, tham, sân, si, v.v…) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô minh phiền não, cầu được minh tâm kiến tánh, hay giác ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần thông biến hóa để đi dạo chơi ở các thế giới khác, cầu thành tiên để hưởng lạc thú tiêu dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu được phép lạ trị bệnh, để thiên hạ sùng bái kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v…

Hãy nghe tổ Tôn Mật dạy : “Người tà kiến chấp trước sai lầm, ưa cõi trên, chán đời dưới mà tu thiền đó là ngoại đạo thiền”.

Thiền định của phàm phu :

Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục là ô trược mà cầu sinh về cõi Sắc và Vô sắc để hưởng thú vui thanh thoát.

Hãy nghe tổ Tôn Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này : “Người chánh tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm phu thiền”.

Thiền định của Phật giáo :

Thiền định của Phật giáo có hai loại : Tiểu thừa thiền và Đại thừa thiền.

Tiểu thừa thiền là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu thừa người tu phép thiền định này chỉ có công dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền não của pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn ngộ ngay được.

Hơn nữa, người tu Tiểu thừa thiền, tuy đã phá ngã chấp, nhưng còn bị pháp chấp. Họ không ngộ được rằng : Những phương pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô minh phiền não, tiến lên chỗ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có thật tu, thật chứng.

Ngài Tôn Mật định nghĩa về Tiểu thừa thiền như sau : “Người biết rõ lý ngã không (nhưng còn chấp pháp) mà tu thiền là Tiểu thừa thiền”.

Đại thừa thiền : Đây là phương pháp tu thiền của những Bồ tát, căn tánh mau lẹ vượt bực. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như ngài Huệ Năng, chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, hay ngài Ca Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen lên mà liền tỏ ngộ.

Sở dĩ các vị này được mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trãi qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông.

Hãy nghe tổ Tôn Mật nói về các vị này :

“Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Đại thừa thiền. Người đốn ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tâm này mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn như tam muội”.



Add Comment