Mục lục | Table of contents
Bát Nhã Tâm Kinh – Hán văn 1 – tải xuống
Bát Nhã Tâm Kinh – Hán văn 2 – tải xuống
Bát Nhã Tâm Kinh – tiếng Việt – tải xuống
Bát Nhã Tâm Kinh – Thơ hóa – tải xuống
TÀI LIỆU THIỀN HỌC
BÁT NHÃ TÂM KINH
- [mp3+text] Bát Nhã Tâm Kinh – bản Hán ngữ phiên âm – Thầy Trí Thoát
- [mp3+text] Bát Nhã Tâm Kinh – Việt văn – Thầy Trí Thoát – có kinh văn
- [youtube] Bát Nhã Tâm Kinh – Bản Việt ngữ – Thầy Trí Thoát – có kinh văn
- Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Thích Yếu
- Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Thiêm Túc
- Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: Bản âm Hán và Việt ngữ
- Bát Nhã Tâm Kinh
- Bát Nhã Tâm Kinh
- Bát Nhã Tâm Kinh giảng – HT Thích Trí Thủ
- Bát Nhã Tâm Kinh giảng – HT Tịnh Không
- Bát Nhã Tâm Kinh giảng – HT Tuyên Hóa
- Bát Nhã Tâm Kinh giảng giải – HT Thanh Từ
- Bát Nhã Tâm Kinh lược giải – HT Duy Lực
- Bát Nhã Tâm Kinh tiếng Việt – trích trong tập kinh của chùa Linh Son Windsor
- Bát Nhã Tâm Kinh, प्रज्ञा पारमिता हॄदय सूत्रं, Prajñā Pāramitā Hṝdaya Sūtraṃ, trong Phạn ngữ (phần 1)
- Bát Nhã Tâm Kinh, प्रज्ञा पारमिता हॄदय सूत्रं, Prajñā Pāramitā Hṝdaya Sūtraṃ, trong Phạn ngữ (phần 2)
- Bảy Bản Tâm Kinh Trong Đại Tạng – Đại Chánh Tập 8, Số 250-255, 257 – Phiên âm, Việt dịch: Nguyên Tánh (8/2009)
- Hòa thượng Thích Nhất Hạnh dịch lại Tâm Kinh Bát Nhã
- Tâm Kinh Bát Nhã tiếng Phạn – TS Huệ Dân
- Tụng Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh
NHẬT TỤNG THIỀN MÔN
- Chỉ dẫn cần thiết
- Công phu sáng thứ hai
- Công phu chiều thứ hai
- Công phu sáng thứ ba
- Công phu chiều thứ ba
- Công phu sáng thứ tư
- Công phu chiều thứ tư
- Công phu sáng thứ năm
- Công phu chiều thứ năm
- Công phu sáng thứ sáu
- Công phu chiều thứ sáu
- Công phu sáng thứ bảy
- Công phu chiều thứ bảy
- Công phu sáng chủ nhật
- Công phu chiều chủ nhật
- Đảnh lễ và tán dương
ĐỊA CHỈ THIỀN VIỆN
THIỀN TÔNG PHÁP KINH
- 10 Món Ma về Hành Ấm
- 10 Món Ma về Sắc Ấm
- 10 Món Ma về Thọ Ấm
- 10 Món Ma về Thức Ấm
- 10 Món Ma về Tưởng Ấm
- 50 món ma chướng (Ngũ Ấm Ma)
- Các loại Thiền ngoại đạo
- Địa chỉ các trung tâm thiền ở Miến Điện
- Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn – HT Thanh Từ dịch
- Đường lối tu thiền của HT Thích Thanh Từ
- Giới thiệu đường lối tu thiền của Phật giáo
- Hệ thống truyền thừa Thiền tôn tại Ấn Độ
- Hệ thống truyền thừa Thiền tôn tại Trung Hoa
- Hệ thống truyền thừa Thiền tôn tại Việt Nam
- Kim Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật
- Kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già
- Kinh Pháp Bảo Đàn – trọn bộ
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm trọn bộ – Thiền sư Thích Duy Lực dịch và lược giải
- Kinh Viên Giác – trọn bộ
- Một số Pháp Thiền định thông thường của Đại Thừa Thiền
- Nhật tụng Thiền môn – HT Thích Nhất Hạnh biên soạn
- Nhật tụng Thiền môn – HT Thích Nhất Hạnh biên soạn
- Nhị Thừa Thiền
- Những kinh nghiệm cá nhân của đức Phật về Thiền
- Phàm Phu Thiền
- PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG THỰC TẾ ĐẾN KHÔNG NGỜ – HT THANH TỪ
- Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam – Thích Thanh Từ
- Sơ đồ tổng quan về Thiền Tôn
- Sự Tương Quan Giữa Bát Nhã Và Thiền Tông
- Thiền học cho người bắt đầu
- Thiền tông kệ truyền
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập
- Thiền Trúc Lâm Yên Tử – Dòng thiền Việt Nam
- Thiền Tứ Niệm Xứ – HT Thích Trí Siêu
- Tôi là ai: Một phương pháp hành Thiền – Ni Sư Ayya Khema
- Tứ Thiền – Thích Đức Thắng
KHÁI NIỆM BAN ĐẦU VỀ THIỀN
Dưới đây là kiến thức hệ thống về các loại Thiền trên thế gian, được trích từ Bản đồ tu Phật của Hòa thượng Thích Thiện Hoa.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Thiền là con đường thứ 5 trong số các con đường có thể tu tập để thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đây là con đường có mặt ở tất cả các tông phái và trường phái Phật giáo, ở tất cả các cấp độ tu tập của chúng sinh, có thể sự xuất hiện đó là trực tiếp hoặc gián tiếp.
Thiền Phật giáo phải được xuất phát từ Đức Phật, có nguồn gốc từ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Nếu không có chứng cứ này thì không phải của Phật giáo.
Xin mời đọc thêm:
- Kinh nghiệm cá nhân của Đức Phật về Thiền – HT Thích Minh Châu
TẠI SAO GỌI LÀ THIỀN TÔN ?
(Phần này trích từ Bản đồ tu Phật – HT Thiền Tâm)
Thiền tôn là một tôn phái của Phật giáo lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.
Chữ “Thiền” là do chữ “thiền na”, một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa, và dịch nghĩa là định lự (định các tư lự). Hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định.
Có chỗ giải : Chữ “thiền” xưa dịch là “tư duy”, nay dịch là “tịnh lự”. Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm những đối tượng của tâm thức (tức là quán). “Tịnh lự” có nghĩa là để tâm vắng lặng không cho khởi các vọng tưởng tư lự (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.
Chữ “định” nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn.
Hợp hai chữ Thiền và Định, chúng ta có một nghĩa chung như sau : Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chơn lý.
Phương pháp thiền định có hai cách :
1. Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là “tham thiền”, như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v…
2. Tập trung tư tưởng để quan sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì, như quán bất tịnh, quán từ bi v.v…, nên cũng gọi là “quán tưởng”.
Có chỗ gọi là tu “chỉ quán” hay tu “định huệ”. Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tức là Định. Quán là quán sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ.
“Chỉ” là nhơn, mà “Định” là quả.
“Quán” là nhơn, mà “Huệ” là quả.
B. CÁC LOẠI THIỀN ĐỊNH
Thiền định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại đạo, có thứ thiền của phàm phu, có thứ thiền của Tiểu thừa, có thứ thiền của Đại thừa.
Hãy nghe Ngài Tôn Mật Thiền sư dạy :
(…Người muốn cầu Thánh đạo, tất phải tu thiền. Chơn tánh không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song thiền định có cạn và sâu, từng bực không đồng :
– Người tà kiến, chấp trước sái lạc, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền là ngoại đạo thiền.
– Người chánh tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền, là phàm phu thiền.
– Người biết rõ lý “ngã không” mà tu thiền, là Tiểu thừa thiền.
– Người ngộ được lý “ngã, pháp đều không” mà tu thiền, là Đại thừa thiền.
– Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác, y theo tâm ấy mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là chơn như tam muội”
Vì thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn, chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi lạc vào đường nguy hiểm.
- CÁC LOẠI THIỀN NGOẠI ĐẠO
- PHÀM PHU THIỀN
- NHỊ THỪA THIỀN
- ĐẠI THỪA THIỀN: Xin xem phần D. bên dưới
Có thể quý vị quan tâm
- Giới thiệu Phật giáo nguyên thủy tại VN
- Toàn tập về HT Hộ Tông – Sơ tổ Phật giáo Nguyên Thủy VN
- Toàn tập về HT Bửu Chơn
C. NHỊ THỪA THIỀN
Có thể quý vị quan tâm:
- Tìm hiểu Phật giáo Theravada
- Tìm hiểu Thiền định Nam tông
- Địa chỉ các trung tâm thiền ở Miến Điện
- Thiền Nguyên Thủy – Tâm Hải
- Thiền Phật giáo: Nguyên thủy và Phát triển
- Kinh Niệm Xứ
- Chú giải kinh Niệm Xứ – HT Narada
Đang cập nhật….
D. ĐẠI THỪA THIỀN
Trong mục này, chúng tôi sẽ dành riêng toàn tập để nói về Đại thừa thiền. Nội dung của tập này sẽ gồm những mục chính sau đây :
- Các pháp môn của Đại thừa thiền
- Sự truyền thừa của các Tổ trong phái Thiền tôn, ở Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam.
- Các ma chướng trong lúc tu thiền
- Các kinh sách nói về thiền
Trước khi đi sâu vào các mục nói trên, chúng ta hãy hiểu qua thế nào là Đại thừa thiền ?
Đại thừa thiền là pháp tu thiền của bực Đại thừa, cũng gọi là xuất thế gian thượng thượng thiền. Yếu tố căn bản của Đại thừa thiền là trí huệ. Thiền giả phải lấy trí huệ để tự quan sát tâm tánh. Nếu thiếu trí huệ, thiền giả khó được kết quả khi tu theo Đại thừa thiền.
Về phương pháp tu chứng và truyền thọ của Đại thừa thiền có ba cách :
– Cách thứ nhất : Đây là các loại tam muội , mà hành giả căn cứ theo các kinh sách Đại thừa tu luyện, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Giác ý tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội, v.v…
– Cách thứ hai : Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi, để chỉ giáo. Trong Phật giáo gọi lối thiền này là “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham cứu này Thiền giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm.Thiền Tham Thoại Đầu (Tổ Sư Thiền) thuộc phương pháp này
– Cách thứ ba : Với cách này, chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được. Trong cách các tổ sư, khi có người đến cầu pháp, không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi.
Như dòng Lâm tế, khi có người đến cầu đạo, Thiền sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét. Như dòng Quy ngưỡng, các vị tổ sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ tử. Như dòng Vân môn, có vị tổ chỉ nói một chữ mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ. Như có ngài chỉ đãi nước trà (ngài Triệu Châu) hay mời ăn cơm mà người đến cầu đạo được giác ngộ.
– Có người lại ngắm bóng mình dưới nước, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo và cười (hổ khê tam tiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liểu, hay lấy gậy đập cục đất cho bể tan mà liền ngộ đạo.
Thật là thiền cơ mầu nhiệm, người ngoài không thể suy nghĩ, luận bàn được.
Muốn cho người cầu đạo được kết quả các vị truyền pháp phải hội đủ ba điều kiện sau đây :
– Biết căn cơ người cầu đạo.
– Biết thời tiết đúng lúc truyền đạo.
– Biết phương pháp nào thích hợp.
Trong ba phương pháp nói trên. Nếu truyền pháp không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết quả.
Có thể quý vị quan tâm:
I. CÁC PHÁP MÔN CỦA ĐẠI THỪA THIỀN
II. HỆ THỐNG TRUYỀN THỪA CỦA CÁC TỔ TRONG PHÁI THIỀN TÔN
III. CÁC MA CHƯỚNG TRONG LÚC TU THIỀN
Chúng tôi xin trích hết đoạn “Ngũ ấm ma” trong kinh Lăng Nghiêm, để giúp cho quý vị tu thiền, biết trước những điều chướng ngại để đối trị.
- 50 Món ma chướng (Ngũ Ấm Ma)
- 10 Món ma về Sắc Ấm
- 10 Món ma về Thọ Ấm
- 10 Món ma về Tưởng Ấm
- 10 Món ma về Hành Ấm
- 10 Món ma về Thức Ấm
IV. CÁC KINH SÁCH NÓI VỀ THIỀN
Kinh sách nói về thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, để quý độc giả khỏi bỡ ngỡ trong khi nghiên cứu để học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số kinh sách thiết yếu sau đây :
1. Kinh Lăng Già:
2. Kinh Lăng Nghiêm
3. Kinh Viên Giác
4. Kinh Pháp Bảo Đàn
5. Đại Thừa Chỉ Quán
6. Tiểu Chỉ Quán
7. Đồng Môn Chỉ Quán
8. Lục Diệu Pháp Môn
9. Kinh Kim Cang
10. Truyền đăng lục
11. Thiền gia ngữ lục
- Liên kết 1
- Liên kết 2
12. Tọa thiền chỉ nam
- Liên kết 1
- Liên kết 2
13. Tông cảnh lục (của ngài Tống Diên Thọ thiền sư)
14. Luận Đại thừa khởi tín (của Bồ tát Mã Minh)
15. Vô môn quán (của Tống Tôn Thiện thiền sư)
16. Bích Nham Lục (của Phật quả Viên ngộ)
17. Thung dung lục (của Vạn tùng Lão nhơn)
18. Thiên Lâm Vĩnh gia tập (của Huyền Giác)
19. Thiền tôn chỉ nam (của vua Trần Thái Tôn)
v.v…
E. PHẦN TỔNG KẾT
Thiền định có nhiều loại, nhưng tóm lại, có thể chia làm hai loại lớn : Chánh định và tà định, hay phàm phu thiền và thánh nhơn thiền, hoặc ngoại đạo thiền và Phật giáo thiền.
Thiền định của ngoại đạo :
Những người theo lối thiền định này do tâm niệm không chơn chánh (phiền não, tham, sân, si, v.v…) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô minh phiền não, cầu được minh tâm kiến tánh, hay giác ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần thông biến hóa để đi dạo chơi ở các thế giới khác, cầu thành tiên để hưởng lạc thú tiêu dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bệnh hoạn, được trường sinh bất tử, cầu được phép lạ trị bệnh, để thiên hạ sùng bái kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v…
Hãy nghe tổ Tôn Mật dạy : “Người tà kiến chấp trước sai lầm, ưa cõi trên, chán đời dưới mà tu thiền đó là ngoại đạo thiền”.
Thiền định của phàm phu :
Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục là ô trược mà cầu sinh về cõi Sắc và Vô sắc để hưởng thú vui thanh thoát.
Hãy nghe tổ Tôn Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này : “Người chánh tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm phu thiền”.
Thiền định của Phật giáo :
Thiền định của Phật giáo có hai loại : Tiểu thừa thiền và Đại thừa thiền.
– Tiểu thừa thiền là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu thừa người tu phép thiền định này chỉ có công dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền não của pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn ngộ ngay được.
Hơn nữa, người tu Tiểu thừa thiền, tuy đã phá ngã chấp, nhưng còn bị pháp chấp. Họ không ngộ được rằng : Những phương pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô minh phiền não, tiến lên chỗ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có thật tu, thật chứng.
Ngài Tôn Mật định nghĩa về Tiểu thừa thiền như sau : “Người biết rõ lý ngã không (nhưng còn chấp pháp) mà tu thiền là Tiểu thừa thiền”.
– Đại thừa thiền : Đây là phương pháp tu thiền của những Bồ tát, căn tánh mau lẹ vượt bực. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như ngài Huệ Năng, chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, hay ngài Ca Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen lên mà liền tỏ ngộ.
Sở dĩ các vị này được mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trãi qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông.
Hãy nghe tổ Tôn Mật nói về các vị này :
“Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Đại thừa thiền. Người đốn ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tâm này mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn như tam muội”.