[SN.IV.04] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Jambukhàdaka
Thứ tư, Tương ưng Jambukhādaka (Jambukhādakasaṃyutta) và thứ năm, Tương ưng Sāmaṇḍaka (Sāmaṇḍakasaṃyutta) ghi lại những lời dạy của Tôn giả Sāriputta với du sĩ ngoại đạo Jambukhādaka và Sāmaṇḍaka về những vấn đề như Niết-bàn và con đường dẫn đến Niết-bàn (S. IV. 251); thế nào là vị A-la-hán và con đường dẫn đến quả vị A-la-hán (S. IV. 251); phương cách điều hòa hơi thở và đạt đến điều hòa hơi thở tối thượng (S. IV. 254); thế nào là thọ (S. IV. 255); thế nào là lậu hoặc, vô minh, khát ái, bộc lưu, chấp thủ (S. IV. 256-58)… đã được Tôn giả Sāriputta giảng giải thỏa đáng.
[SN.IV.03] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Nữ Nhân
Tương ưng Nữ nhân (Mātugāmasaṃyutta) đề cập đến những đức tánh khả ý và không khả ý của người phụ nữ (S. IV. 238), những điểm đặc thù chỉ riêng có ở phụ nữ (S. IV. 239) và cả những tật xấu của phụ nữ như phẫn nộ, sân hận, tật đố, xan tham, biếng nhác… Ngoài ra, Tương ưng này cũng đề cập đến những tăng trưởng tốt đẹp dành cho phụ nữ (S. IV. 250). Tương ưng Nữ nhân đã chuyên chở một vài chi tiết không phải lời Phật dạy mà là những quan niệm, những định kiến của xã hội Ấn Độ cổ đại đối với phụ nữ.
[SN.IV.02] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Thọ
Tương ưng Thọ (Vedanāsaṃyutta) đề cập đến ba thọ, gồm lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. “Ba thọ này, do xúc sanh, lấy xúc làm căn bản, lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm trợ duyên” (S. IV. 215). Đức Phật khẳng định rằng: “Phàm cái gì được cảm thọ, cái ấy nằm trong đau khổ” (S. IV. 216).
[SN.IV.01] Tương Ưng Bộ Kinh – Tương Ưng Sáu Xứ
Tương ưng đầu tiên là Tương ưng Sáu xứ (Saḷāyatanasaṃyutta). Đây là Tương ưng dài thứ hai trong Tương ưng bộ. Nội dung của Tương ưng này đề cập đến tính chất vô thường, khổ, vô ngã trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đức Phật nói rằng: “Ai ưa thích mắt, này các Tỷ-kheo, người ấy ưa thích khổ. Ai ưa thích khổ, Ta nói người ấy không thoát khỏi khổ” (S. IV. 13). “Do duyên mắt và các sắc khởi lên nhãn thức” (S. IV. 67). Chính vì vậy, cần phải hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống và chú tâm cảnh giác, ngay trong hiện tại sống được an lạc, hoan hỷ và tạo nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các lậu hoặc (S. IV. 175). Hình ảnh khúc gỗ trôi sông, nếu như không tấp vào bờ này hay bờ kia, không bị mục nát, không bị phi nhân nhặt lấy… tất sẽ trôi ra biển lớn. Cũng vậy, vị Tỷ-kheo không bị dính mắc bởi sáu nội xứ và sáu ngoại xứ, tâm không chấp thủ… sẽ xuôi về Niết-bàn (S. IV. 179).