TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
KINH BỔN SANH – TIỂU BỘ KINH – TẬP IX
Việt dịch: GS Trần Phương Lan
———-o0o———-
CHƯƠNG XXII (Đại Phẩm)
Mục lục
ĐẠI PHẨM (tiếp theo)
540. Chuyện hiếu tử Sàma (Tiền thân Sàma)
Ai đó đang mai phục bắn mình…,
Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ- kheo phụng dưỡng mẹ.
Chuyện kể rằng có một thương nhân giàu có tại thành Xá-vệ, của cải lên đến một trăm tám mươi triệu, người này có một cậu con trai rất được yêu quý. Một ngày nọ, cậu trai đi lên lầu, mở cửa nhìn xuống đường, khi thấy đám đông dân chúng đang đi đến Kỳ Viên, tay cầm hương hoa cúng dường để nghe thuyết Pháp, cậu bảo rằng cậu cũng muốn đi. Cậu truyền đem hương hoa lại, rồi cậu đi đến tịnh xá cúng dường y phục, dược phẩm, cùng các thức ăn uống cho chúng Tỷ-kheo ở đó và đảnh lễ đức Thế Tôn với hương hoa, rồi ngồi xuống một bên…
Sau khi nghe thuyết Pháp, cậu nhận thức được các quả ác do tham dục gây ra và những quả phúc do đời sống tu hành mang lại. Rồi khi hội chúng ra về, cậu xin đức Thế Tôn cho cậu thọ giới. Nhưng đức Như Lai bảo cậu rằng ngài không truyền giới cho ai chưa xin phép cha mẹ. Vì thế cậu ra về, nhịn ăn một tuần, cuối cùng được cha mẹ chấp thuận, cậu trở lại và xin thọ giới. Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho cậu.
Sau đó vị Tỷ-kheo mới này được tán thán và đạt nhiều công hạnh, được sự ái mộ của các vị sư trưởng và giáo thọ và khi đã thọ đại giới, ông tinh thông Giáo pháp trong vòng năm năm. Rồi vị Tỷ-kheo này nghĩ: “Ta sống viễn ly ở chốn này thật không hợp với ta”. Và ông nóng lòng đạt cứu cánh của Thiền định. Thế là sau khi nghe lời dạy của vị giáo sư về Thiền định, ông đi đến một làng ở biên giới, sống trong rừng sâu hành trì phép Thiền định, nhưng không đạt được ý niệm nào đặc biệt, dù ông đã tinh cần tu tập trong mười hai năm liền mà tâm không được định tĩnh.
Cũng trong thời gian này, cha mẹ của Tỷ-kheo này trở nên nghèo túng vì những người thuê đất hay bán hàng cho nhà này thấy trong nhà không có con em gì đến buộc họ trả nợ, cho nên đã đoạt hết của cải nào rơi vào tay họ và tha hồ chạy trốn; gia nhân tôi tớ trong nhà lại trộm vàng bạc trốn đi. Vì thế cuối cùng hai người lâm vào cảnh khốn cùng, không còn đến cái bình đựng nước nữa, phải bán nhà đi lang thang hết sức cùng cực, phải đi ăn xin, mặc áo rách rưới và mang chiếc bình mẻ trong tay.
Lúc bấy giờ có một trưởng lão Tỷ-kheo từ Kỳ Viên đến nơi cư trú của người con trai ấy, ông tiếp đón ân cần vị khách kia xong, ngồi yên lặng hỏi thăm khách từ đâu đến. Khi được biết từ Kỳ Viên, ông hỏi thăm sức khỏe của bậc Đạo Sư cùng các đại đệ tử của ngài, xong rồi hỏi thăm tin tức cha mẹ mình.
– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả cho biết tình cảnh của một gia đình thương nhân ở Xá-vệ.
– Này hiền hữu, đừng hỏi thăm tin tức gia đình ấy nữa.
– Tại sao thế, thưa Tôn giả?
– Người ta nói gia đình ấy có một cậu con trai, nhưng cậu ta đã đi tu theo đạo pháp, và từ khi cậu ấy xuất gia thì gia đình cậu bị sạt nghiệp, lúc này cả hai ông bà lão đang lâm vào tình cảnh rất thê thảm và phải đi ăn xin.
Khi ông nghe khách nói xong, không thể nào cầm lòng được, nước mắt cứ ràn rụa và khi khách hỏi tại sao lại khóc, ông đáp:
– Thưa Tôn giả, đó chính là cha mẹ tôi, tôi là con của các vị ấy.
– Này Hiền hữu, cha mẹ bạn đã sạt nghiệp vì bạn,vậy hãy về phụng dưỡng các vị.
Ông liền nghĩ: “Trong mười hai năm liền ta tinh cần tu tập mà không thể nào đạt đạo hay đắc quả, có lẽ ta vô tài trí. Vậy ta có làm gì được với đời sống Phạm hạnh này? Chi bằng ta trở về làm một gia chủ phụng dưỡng cha mẹ già và bố thí của cải. Như vậy cuối cùng ta cũng được sinh lên thiên giới”. Quyết định xong ông nhường chỗ cư trú của mình trong rừng cho vị Trưởng lão kia.
Hôm sau ông ra đi, qua nhiều chặng đường thì tới tinh xá phía sau Kỳ Viên không xa thành Xá-vệ mấy. Tại đó ông thấy hai con đường, một đường dẫn đến Kỳ Viên, một đường dẫn đến Xá-vệ. Khi đứng đó, vị Tỷ-kheo này suy nghĩ: “Ta đến viếng cha mẹ ta trước hay đức Phật trước? Rồi ông tự nhủ: “Ngày xưa ta gặp cha mẹ ta luôn, từ đây ta sẽ ít có dịp yết kiến đức Phật; vậy ta hãy yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác ngày hôm nay và nghe thuyết Pháp, rồi ngày mai ta sẽ đi thăm cha mẹ”.
Thế là ông bỏ con đường đi Xá-vệ và đi đến Kỳ Viên lúc chiều tối. Vào ngày đó, lúc tảng sáng, bậc Đạo Sư nhìn xuống trần gian, đã thấy được tiềm lực ngộ đạo của vị này, nên khi ông đến yết kiến Thế Tôn, ngài tán thán công đức của cha mẹ theo kinh Màtiposaka (voi hiếu dưỡng mẹ-Tiền thân số 455). Trong khi đứng cuối hội chúng Tỷ-kheo và nghe thuyết Pháp, ông nghĩ: “Nếu ta trở thành người gia chủ, ta có thể phụng dưỡng cha mẹ ta”, nhưng bậc Đạo Sư cũng dạy: “Một người con đi xuất gia vẫn có thể giúp đỡ cha mẹ mình”. Trước kia ta rời thế tục mà không đến yết kiến đức Thế Tôn, và ta đã thất bại trong sự thọ giới không trọn vẹn như vậy. Bây giờ ta muốn phụng dưỡng cha mẹ ta mà vẫn duy trì đời sống tu hành chứ không làm một người gia chủ”. Vì vậy ông cầm lấy thẻ cùng các vật thực phát theo thẻ và cháo của mình và cảm thấy như thể mình đã phạm trọng tội đáng bị khai trừ sau mười hai năm độc cư trong rừng.
Sáng hôm sau ông đi đến Xá-vệ và nghĩ thầm: “Ta nên đi lấy cháo trước hay thăm cha mẹ ta trước đây?”. Ông nghĩ lại và thấy rằng đi thăm cha mẹ trong lúc cha mẹ nghèo khổ mà không có gì trong tay để biếu thì thật là không phải đạo. Vì thế ông đi lấy cháo trước rồi đến cửa nhà cũ. Vừa thấy cha mẹ ngồi cạnh bức tường đối diện, sau khi đã đi một vòng khất thực được cháo lòng, ông đứng không cách xa họ mấy và bỗng thấy nỗi sầu thương nổi lên, mắt đẫm lệ. Còn họ thấy ông nhưng không nhận ra, rồi bà mẹ tưởng rằng đó là một kẻ đang chờ của bố thí, liền nói:
– Chúng ta không có gì để bố thí cho người cả, người chịu khó đi nơi khác.
Nghe bà mẹ nói vậy, ông cố nén nỗi buồn đang tràn đầy trong lòng, đứng yên mắt đẫm lệ, và khi được bảo lần thứ hai, thứ ba, ông vẫn đứng yên. Cuối cùng ông cha bảo bà mẹ:
– Bà đến xem thử có phải con trai bà đó không?.
Bà vùng dậy chạy đến nhìn ra con, gục xuống chân mà than khóc, ông cha cũng khóc theo, bao nỗi sầu khổ đều tuôn ra hết. Thấy lại cha mẹ, ông không thể nén được lòng mình, cũng bật khóc. Sau cơn xúc động, ông nói:
– Đừng buồn nữa cha mẹ ôi, con sẽ phụng dưỡng cha mẹ.
Thế là sau khi an ủi cha mẹ và cho họ húp nước cháo rồi ngồi xuống bên đường, ông lại ra đi khất thực đem về cho cha mẹ dùng, sau đó mới đi khất thực cho chính mình. Xong bữa ăn, ông liền đi tìm nơi trú chân không xa đó mấy. “Từ ngày ấy về sau ông chăm sóc cha mẹ bằng cách này; ông đem cho cha mẹ đồ khất thực dành cho mình, luôn cả những vật dụng bố thí hằng nửa tháng một lần, và ông đi khất thực nhiều lần để thọ dụng. Còn những vật thực dành cho mùa mưa cũng đều đem cho cha mẹ dùng, trong khi ông đem áo quần rách của cha mẹ về đóng cửa kín mà nhuộm lại để mặc. Nhưng rất ít ngày ông đi khất thực được đồ dùng, phần nhiều là chẳng được gì cả, nên y trong cũng như y ngoài đều tả tơi cả. Trong thời gian chăm sóc cha mẹ như thế, ông dần dần trở nên xanh xao gầy ốm, bạn hữu thấy vậy bảo:
– Da dẻ bạn trước đây tươi sáng, nhưng nay bạn xanh xao quá, hẳn có bệnh gì?
Ông đáp:
– Ta không có bệnh gì cả, nhưng ta đang gặp một chướng ngại.
Rồi ông kể cho họ nghe câu chuyện nhà. Họ đáp:
– Thưa hiền giả, bậc Đạo Sư không cho phép ta phí phạm lễ vật cúng dường của các thí chủ, bạn đã làm việc trái phép khi đem lễ vật cúng dường của thí chủ cho người thế tục.
Nghe nói vậy, ông hổ thẹn cúi gầm mặt xuống, nhưng vẫn chưa thỏa dạ, họ đem chuyện kể với bậc Đạo Sư:
– Bạch Thế Tôn, người này đã phí phạm lễ vật cúng dường và đem cho người thế tục.
Bậc Đạo Sư cho gọi vị Tỷ-kheo trẻ ấy đến và hỏi:
– Có phải ông đã xuất gia mà còn lấy vật cúng dường của thí chủ đem cho người thế tục không?
Ông thú nhận là có. Rồi bậc Đạo Sư muốn ngợi khen việc làm của ông và nói về một việc cũ của Ngài, liền hỏi:
– Thế ông phụng dưỡng người thế tục nào đó?
– Bạch Thế Tôn, chính cha mẹ của con.- Ông đáp.
Lúc đó Thế Tôn muốn khuyến khích việc làm của ông hơn nữa, Ngài bảo ba lần:
– Tốt lành thay! Tốt lành thay! Ông đang đi con đường ngày xưa Ta đã đi qua, ngày xưa khi đi khất thực Ta cũng phụng dưỡng cha mẹ Ta.
Như thế vị Tỷ-kheo được Ngài khích lệ vì việc đó. Rồi theo lời thỉnh cầu của chúng Tỷ-kheo, bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ để cho biết các nghiệp đời trước của Ngài.
*
Ngày xưa, không xa thành Ba-la-nại, ở phía bên này sông, có một làng thợ săn và một làng nữa ở bên kia sông, mỗi làng có chừng năm trăm gia đình cư trú. Lúc bấy giờ có hai nhà thiện xạ trong hai làng đó là đôi bạn thân thích, họ giao ước với nhau từ trẻ rằng nếu đôi bên sinh con trai và con gái thì sẽ gả con cho nhau. Theo thời gian trôi, một cậu trai được hạ sinh trong nhà thiện xạ bên này sông và một cô gái sinh vào nhà thiện xạ kia. Cậu bé được đạt tên Dukùlaka vì khi sinh ra đời cậu được quấn trong lớp tã lót thật đẹp, còn cô gái được đặt tên là Parikà, vì cô sinh ra bên kia sông. Cả hai đều xinh đẹp với làn da óng ả như vàng và mặc dù được sinh ra trong làng săn bắn, chúng không hề sát sinh hại mạng. Khi cậu bé lên mười sáu tuổi, cha mẹ cậu bảo:
– Này con, cha mẹ sẽ cưới vợ cho con.
Nhưng cậu là một người thanh tịnh từ Phạm thiên giới mới xuống đây, cho nên cậu bịt tai lại bảo:
– Con không muốn ở trong nhà, đừng nói chuyện ấy với con.
Rồi mặc dù cha mẹ cậu nói chuyện đó ba lần, cậu không tỏ ý ham thích chút nào. Còn nàng Parikà cũng vậy, khi cha mẹ nàng bảo:
– Con trai của ông bạn nhà ta thật khôi ngô với làn da óng ả như vàng, cha mẹ định gả con cho cậu ấy đấy.
Nàng cũng bịt tai lại và trả lời như chàng trai kia.Vì chính nàng cũng xuống đây từ Phạm thiên giới. Cậu Dukùlaka bí mật gửi cho cô gái một lời nhắn nhủ: “Nếu nàng muốn sống đời vợ chồng thì hãy tìm đến một gia đình khác, vì ta không muốn như vậy”. Và nàng cũng gửi cậu một lời nhắn nhủ tương tự như thế. Nhưng dù họ không đồng ý, cha mẹ họ vẫn cử hành hôn lễ. Thế là cả hai người sống riêng lẻ như các vị Phạm thiên, không hề sa vào bể ái dục. Dakùlaka không hề giết cá hay nai hươu, cũng không hề bán các thứ cá mà người khác mang đến cho cậu. Cuối cùng cha mẹ cậu bảo:
– Con sinh ra trong gia đình săn bắn mà con lại không thích sống trong nhà, cũng không sát sinh hại vật, vậy con muốn gì?.
Cậu đáp:
– Nếu cha mẹ cho phép, con xin làm ẩn sĩ ngay ngày hôm nay.
Cha mẹ họ đều cho phép họ ngay lập tức. Thế là họ từ giã cha mẹ, ra đi dọc theo bờ sông Hằng, rồi rời bỏ sông Hằng, họ đi lên núi dọc theo sông Migasammatà. Lúc bấy giờ cung của Sakka Thiên chủ bỗng nóng rực lên. Thiên chủ Sakka, sau khi xác định duyên cớ, liền bảo thần Vissakamma:
– Này Vissakamma, có hai bậc Đại nhân đã xuất thế và đang đi vào núi Himavat, chúng ta phải tìm nơi trú ẩn cho họ, vậy hãy đi dựng am lá và cung cấp mọi vật dụng cần thiết cho cuộc đời tu hành của họ ở một nơi cách sông Migasammatà chừng một phần tư dặm đường, xong rồi trở lại đây.
Thế là vị này đi chuẩn bị đủ mọi vật dụng giống như được mô tả trong Tiền thân Mùgapakkha, rồi trở về nhà; sau khi đã xua hết mọi súc vật có thể gây ồn ào khó chịu trong rừng và mở một con đường mòn gần đó. Hai vị ẩn sĩ thấy có đường mòn liền theo đó đến am. Khi Dukùlaka bước vào trong am, thấy đủ mọi vật dụng cần thiết liền kêu lên:
– Đây chính là lễ vật của Thiên chủ Sakka cúng dường ta.
Thế rồi Dukùlaka cởi áo ngoài ra, mặc vào chiếc y màu vỏ dà, đắp tấm da hươu qua một bên vai, cột túm tóc lại ra dáng một vị khổ hạnh, rồi cũng làm lễ truyền giới cho Parikà như vậy, xong rồi họ sống ở đó, tu tập lòng Từ thuộc về cõi Dục. Nhờ ảnh hưởng lòng Từ của họ đối với mọi vật, chim muông và thú rừng cũng khởi lên lòng từ ái đối với nhau, chứ không hề làm hại lẫn nhau.
Parikà lo kiếm nước và thức ăn, quét dọn am, làm đủ mọi việc cần thiết, rồi cả hai người đi kiếm đủ loại trái cây về ăn. Sau đó họ ở vào trong thảo am riêng của mình hành trì đủ mọi giới luật của đời Phạm hạnh. Thiên chủ Sakka cung cấp đủ mọi nhu cầu của họ.
Một ngày kia, ngài tiên tri được một hiểm họa sắp xảy ra cho họ: “Họ sẽ mất thị giác”. Vì thế ngài tìm đến Dukùlaka, đảnh lễ xong, ngồi xuống một bên, ngài bảo:
– Thưa Tôn giả, ta thấy trước một hiểm họa sắp đe dọa các Tôn giả, vậy các Tôn giả phải sinh một đứa con trai để phụng dưỡng các vị sau này, hãy đi theo đường lối của thế gian.
– Thưa Thiên chủ, tại sao ngài lại bảo vậy? Ngay cả khi chúng con còn ở chung một nhà trước kia, chúng con cũng đã chán ghét ái dục, giờ đây làm sao chúng con thực hiện điều ấy được khi chúng con đã vào rừng sống đời Phạm hạnh của kẻ xuất gia.
– Được rồi, nếu Tôn giả không muốn làm như ta nói, thì đợi đến lúc thuận tiện hãy lấy tay sờ rốn của Parikà.
Dukùlaka ưng thuận làm theo. Thiên chủ Sakka từ giã ra về. Bậc Đại Sĩ kể chuyện ấy với Parikà và đến lúc thời cơ thuận lợi, lấy tay sờ vào rốn Parikà. Ngay lúc ấy Bồ-tát từ Thiên giới xuống nhập vào bụng bà và bà mang thai từ đó. Sau mười tháng, bà hạ sinh một hài nhi da vàng óng, vì thế nên họ đặt tên là Suvannasàma (Hoàng Kim).
Lúc bấy giờ các nữ thần Kinnara (Khẩn-na-la: Ca thần của Sakka) ở núi bên kia đến chăm sóc Parikà lúc bà lâm bồn. Đôi cha mẹ này tắm rửa hài nhi xong đặt vào chòi lá và đi kiếm đủ loại trái cây. Trong khi họ ra ngoài, các nữ thần Kinnara đem hài nhi vào động của họ tắm rửa và đem lên đỉnh núi trang hoàng cho hài nhi đủ loại hoa, lấy chất sơn vàng đỏ xanh làm dấu đặc biệt trên thân thể, rồi đem về để lại trên giường trong chòi lá, sau đó Parikà về chòi cho con bú.
Họ yêu quý con, nâng niu chăm sóc con cho đến năm mười sáu tuổi, họ thường để con ở trong chòi rồi đi vào rừng kiếm củ và trái cây. Bồ-tát suy nghĩ: “Mối hiểm họa một ngày kia sẽ xảy ra”. Ngài thường canh chừng con đường cha mẹ ngài đi ra.
Một ngày kia họ trở về lúc chiều tối sau khi đã nhặt củ và trái cây. Vừa đến gần chòi thì một đám mây lớn kéo tới. Họ vội ẩn mình dưới gốc cây trên một ổ kiến. Trong ổ kiến này có một con rắn độc. Lúc bấy giờ nước trên thân họ nhỏ giọt xuống mang theo mùi mồ hôi đến mũi con rắn làm nó tức giận, thổi phà hơi độc lúc họ đứng đó để tấn công họ, khiến cho cả hai đều bị mù không nhìn thấy nhau được nữa. Dukùlaka gọi lớn Parikà:
– Mắt ta mù rồi, ta không thấy nàng nữa.
Họ bảo nhau trong khi quờ quạng đi quanh, khóc lóc và không sao tìm được lối về.” Đời trước ta đã phạm tội gì?” Họ nhủ thầm như vậy. Thuở tiền kiếp, họ sinh vào gia đình một y sĩ. Vị y sĩ đó chữa bệnh mắt cho một người giàu có, nhưng người này không chịu trả y phí, vị y sĩ tức giận nói với vợ:
– Ta phải làm sao đây?
Bà vợ cũng tức giận bảo:
– Ta không cần tiền của nó, cứ chế ra một thứ thuốc rồi bảo đó là thuốc chữa bệnh và ta làm mù mắt nó đi.
Vị y sĩ đồng ý làm theo lời vợ và chính vì tội này mà giờ đây cả hai đều bị mù lòa.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Trước đây cha mẹ ta thường về vào giờ này, ta chẳng biết chuyện gì xảy ra cho cha mẹ ta, ta phải đi tìm mới được”. Vì thế ngài ra đi tìm họ và gây nên một tiếng động. Họ nhận ra tiếng động ấy nên cũng làm một tiếng động đáp lại và vì lòng thương con, họ bảo con:
– Sàma ơi, ở đây nguy hiểm lắm, đừng tới gần. Vì thế ngài đưa cho cha mẹ một cây dài, bảo họ cầm lấy đầu cây gậy rồi đi lần về phía ngài. Ngài bảo với họ:
– Cha mẹ bị mù mắt vì duyên cớ gì?
– Khi trời mưa ta núp dưới gốc cây trên một tổ kiến, thế là ta bị mù mắt.
Nghe thế ngài biết ngay sự việc đã xảy ra. “Có lẽ ở đó có rắn độc, đang lúc nổi giận, nó phun nọc độc ra đấy”. Khi ngài nhìn cha mẹ, ngài bật khóc rồi lại bật cười. Cha mẹ ngài hỏi tại sao, ngài đáp:
– Con khóc vì cha mẹ bị mù lúc còn trẻ, nhưng con lại cười vì từ đây con sẽ phụng dưỡng cha mẹ, cha mẹ đừng buồn, con sẽ chăm nom cha mẹ chu đáo.
Thế rồi ngài dẫn họ về chòi, buộc dây thừng tứ phía phân chia các gian để ở ban ngày và ban đêm, các trai phòng và các phòng khác nữa. Từ ngày ấy ngài bảo cha mẹ ở nhà, còn ngài đi kiếm củ và trái rừng. Buổi sáng dọn dẹp nhà cửa, đi lấy nước sông Migasammatà về, nấu thức ăn và nước, rồi lấy nước rửa mặt đánh răng cho cha mẹ, đem đến cho cha mẹ đủ trái cây ngon ngọt. Khi cha mẹ súc miệng xong, ngài mới dùng. Ăn xong ngài chào cha mẹ, rồi được một đàn nai hộ tống, ngài vào rừng hái quả.
Sau khi hái quả cùng với đám nữ thần Kinnara trên núi, ngài trở về lúc chiều tối, nấu nước nóng tắm rửa chân tay cho cha mẹ rồi mang lại một mẻ chậu than hồng hơ ấm tay chân cha mẹ. Ngài đem đủ loại trái cây cho cha mẹ dùng. Cuối cùng ngài mới ăn phần mình và cất dọn các thứ còn lại. Cứ thế ngài chăm sóc cha mẹ mỗi ngày.
Lúc ấy có một vị vua tên Pilliyakkha trị vì tại Ba-la-nại. Vị này rất thích thịt thú rừng nên đã giao việc triều chính cho mẹ rồi nai nịt năm loại vũ khí đi vào núi Himavat săn bắn hươu nai để ăn thịt, tiến lần đến con sông Migasammatà và cuối cùng tới nơi Sàma thường xuống múc nước. Thấy có vết chân hươu nai, vua dựng chỗ trú ẩn dưới các bụi cây màu ngọc bích, lấy tên tẩm thuốc độc vào, sẵn sàng giương lên và nằm mai phục.
Buổi chiều bậc Đại Sĩ đã hái trái cây xong, đem về lều, chào hỏi cha mẹ rồi nói:
– Con sẽ đi tắm và múc ít nước.
Ngài cầm bình, cả một đoàn nai vây quanh, ngài chỉ chọn ra hai con, buộc bình vào lưng chúng, rồi dẫn chúng đến nơi tắm sông. Nhà vua thấy ngài đến gần tự nhủ: “Suốt thời gian ta đi quanh quẩn nơi đây, ta chưa hề thấy bóng người nào cả, vậy đó là Thiên thần hay rắn thần? Bây giờ nếu ta đến gần hỏi nó ắt nó sẽ bay lên trời nếu đó là Thiên thần, hoặc sẽ độn thổ nếu đó là rắn thần. Nhưng ta có ở núi Himavat này mãi đâu, một ngày kia ta sẽ trở về Ba-la-nại. Lúc đó các quan đại thần sẽ hỏi ta có thấy được việc gì kỳ lạ trong thời gian ta lang bạt ở đây không. Nếu ta bảo họ ta có thấy một người như vầy như vầy, họ sẽ gạn hỏi ta tên nó là gì, nếu ta trả lời không biết thì họ sẽ chê trách ta; vậy thì ta cứ bắn nó cho bị thương, rồi hỏi nó sau”.
Vừa lúc ấy, bầy nai đi xuống trước để uống nước rồi bước lên khỏi chỗ tắm. Sau đó Bồ-tát chầm chậm bước xuống nước như thể một vị đại Trưởng lão đầy đủ giới luật uy nghi đang chuyên tâm đạt đại định, khoác bộ áo bằng vỏ cây và đắp tấm y bằng da nai qua một bên vai, nhấc bình lên múc đầy nước, rồi đặt trên vai trái. Ngay lúc này, vua thấy rằng đã đến thời, liền bắn mũi tên tẩm thuốc độc, làm bậc Đại Sĩ bị thương ở sườn bên phải, rồi mũi tên xuyên qua sườn bên trái.
Bầy nai thấy ngài bị thương kinh hoàng chạy trốn, nhưng Suvannasàma, mặc dù bị thương nặng, vẫn hết sức giữ bình nước cho vững và cố định thần, ngài chầm chậm bước ra khỏi nước. Ngài đào cát chất lên một ụ cao, kê đầu lên hướng về phía chòi của cha mẹ, và ngài nằm xuống chẳng khác nào một bức tượng vàng trên bãi cát màu sáng bạc. Rồi hồi tưởng lại, ngài suy xét mọi việc đã xảy ra: “Ta không có kẻ thù nào trong vùng núi Himavat này, ta cũng không thù oán ai cả”. Khi ngài nói như vậy, máu từ miệng ngài tuôn ra và vì không nhìn thấy vua, ngài liền ngâm kệ:
1. Ai đó đang mai phục bắn mình,
Khi ta đã múc nước đầy bình,
Bà-la-môn, quý tộc, nô lệ,
Ai ám hại ta chẳng biết danh?
Rồi ngài ngâm thêm một vần kệ cho biết thịt của ngài vô dụng, không làm thức ăn được:
2. Người chẳng thể nào ăn thịt ta,
Cũng không thể sử dụng bao da,
Sao người nghĩ lấy ta làm đích,
Người đã tưởng đâu thắng lợi mà?
Ngài lại ngâm thêm một vần kệ khác hỏi họ tên của vua:
3. Người là ai, hãy nói con ai,
Là gì ta sẽ gọi tên người,
Tại sao người lại nằm mai phục?
Thành thật xin người hãy trả lời.
Khi nghe vậy, vua tự nhủ: “Mặc dù kẻ này đã bị ta bắn trọng thương bằng tên độc, vẫn không mạ lỵ ta, oán trách ta, lại còn nói năng dịu dàng như thể ru lòng ta vậy. Thôi ta đến xem sao”. Thế là vua đến gần bên ngài và ngâm kệ:
4. Chúa tể Kà-si quốc chính ta,
Đại vương danh hiệu Pi-yak-kha,
Ta rời ngôi báu vì thèm thịt,
Thơ thẩn tìm nai rừng núi xa.
5. Tài thiện xạ ta thật khéo thay,
Tâm ta can đảm chẳng lung lay,
Chẳng rồng rắn thoát tên ta được
Khi nó đã vào tầm bắn đây.
Sau khi tự khen ngợi tài năng mình như vậy, vua hỏi gia thế của ngài:
6. Ngươi là ai đó vậy, con ai,
Là gì ta sẽ gọi tên ngươi?
Và tên thân phụ cùng gia tộc,
Tên của nhà ngươi, hãy trả lời.
Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Nếu ta bảo rằng ta là Thiên thần hay dòng dõi các nữ thần Kinnara (Khẩn-la-na), hoặc bảo ta là một Sát-đế-lỵ hay thuộc một quý tộc tương tự, vị này sẽ tin ngay, nhưng ta phải nói sự thật”. Vì thế ngài nói:
7. Lúc ta sinh được gọi Sà-ma,
Con thợ săn cùng khổ chính ta,
Nay ở đây nằm trên đất lạnh,
Người nhìn ta đã gặp nguy cơ.
8. Tên độc của người bắn trọng thương,
Ta nằm đơn độc tựa linh dương,
Nạn nhân người giết nhờ tài nghệ,
Lăn lóc ta nay nhuộm máu hường.
9. Tên của người xuyên suốt thịt da,
Theo từng hơi thở máu trào ra,
Ngất ngư, ta vẫn còn than hỏi:
Sao muốn giết người mai phục ta?
10. Ngươi chẳng thể nào ăn thịt ta,
Cũng không thể sử dụng bao da,
Sao người nghĩ lấy ta làm đích,
Người đã tưởng đâu thắng lợi mà?
Khi vua nghe vậy, biết rằng không thể nói thật được, liền bịa một câu chuyện như sau:
11. Một nai đã đến đúng vừa tầm,
Ta nghĩ rằng ta sắp hưởng phần,
Nhưng thấy ngươi, nai kinh hoảng chạy,
Với ngươi, ta chẳng có lòng sân.
Bậc Đại Sĩ đáp:
– Tại sao Đại vương nói vậy được? Cả vùng núi Himavat này không có nai nào thấy ta mà bỏ chạy:
12. Từ khi ta mới biết suy tư,
Nhớ lại thời xưa mãi đến giờ,
Không thú mồi hay nai chạy trốn,
Kinh hoàng khi gặp bước ta qua.
13. Từ lúc ta mang áo vỏ cây,
Bỏ đằng sau chuỗi ngày thơ ngây,
Không nai hay thú mồi đào tẩu,
Khi thấy ta qua các lối này.
14. Các thú hoang kia chính bạn mình,
Cùng ta phiêu bạt khắp rừng xanh,
Nai này sao lại, như người nói,
Khi thấy ta liền chạy hãi kinh?
Khi vua nghe nói, liền nghĩ thầm: “Ta đã làm trọng thương con người vô tội này và lại còn nói dối, thôi ta phải thú tội mới được”. Nghĩ vậy, vua nói:
15. Chẳng có nai nào thấy Sà-ma,
Sao ta nói dối quá dư thừa?
Lòng ta tràn ngập niềm tham, hận,
Và bắn đầu tên đó ấy, chính ta.
Rồi vua nghĩ: “Suvanna không thể sống một mình trong rừng được, chắc phải có thân thích ở đây, để ta thử hỏi xem”. Vì thế vua ngâm kệ:
16. Sáng sớm từ đâu đến, bạn lành,
Ai người bảo bạn phải cầm bình,
Đổ đầy nước múc bờ sông ấy,
Mang gánh nặng lui bước lộ trình?
Nghe vậy, bậc Đại Sĩ cảm thấy một nỗi đau đớn vô cùng và ngâm vần kệ trong khi máu trào ra từ miệng:
17. Cha mẹ sống rừng vắng phía xa,
Mù lòa chỉ lệ thuộc con thơ,
Vì hai thân, đến bên bờ nước,
Ta đổ đầy bình nước của ta.
Rồi ngài tiếp tục than khóc số phận của cha mẹ:
18. Đời sống chỉ như lửa chập chờn,
Một tuần thực phẩm trữ không hơn
Nếu không có nước ta đem lại,
Yếu đuối, mù lòa chết thảm thương.
19. Ta chẳng sợ đau khổ tử vong,
Ấy là số phận mọi loài chung,
Sống không còn được nhìn thân phụ,
Điều ấy khiến tâm trí hãi hùng.
20. Thời khắc lê thê nặng khổ buồn,
Mẹ ta ấp ủ nỗi sầu thương,
Nửa đêm và cả khi trời sáng,
Dòng lệ chảy như suối nước tuôn.
21. Thời khắc lê thê nặng khổ buồn.
Cha ta ấp ủ nỗi sầu thương,
Nửa đêm và cả khi trời sáng.
Dòng lệ chảy như suối nước tuôn.
22. Họ lang thang khắp chốn rừng hoang,
Than vãn con đi quá muộn màng,
Chờ đợi hoài công nghe tiếng bước,
Hay chờ ta vuốt tấm thân tàn.
23. Ý tưởng này, tên độc thứ hai,
Đâm sâu hơn trước nữa, than ôi!
Vì ta nằm tại đây chờ chết
Không thể nhìn cha mẹ nữa rồi!
Nhà vua nghe ngài than khóc, nghĩ thầm: “Người này phụng dưỡng cha mẹ hết lòng hiếu thảo tận tụy, ngay bây giờ đang lúc đau đớn mà cũng chỉ nghĩ đến cha mẹ, thật ta đã gây tội ác với một thánh nhân như vậy, làm sao ta an ủi được người đây? Khi ta đọa xuống địa ngục rồi thì ngai vàng có ích gì cho ta? Thôi ta nguyện phụng dưỡng cha mẹ người như người đã phụng dưỡng họ. Như thế cái chết của người không ảnh hưởng mấy đến họ”. Liền sau đó vua nói lên quyết tâm của mình qua các vần kệ sau:
24. Này hỡi Sà-ma dáng cát tường,
Chớ nên tuyệt vọng ngập tâm hồn,
Vì ta phụng dưỡng hai thân lão
Trong cảnh cô đơn nặng khổ buồn.
25. Ta nay thành thạo với cây cung,
Lời hứa ta cương quyết thủy chung,
Ta sẽ thay người và phụng dưỡng
Mẹ cha người sống ở trong rừng.
26. Ta sẽ đi tìm miếng thịt nai,
Đủ dùng củ rễ, trái cây tươi,
Rồi ta hầu hạ hai thân lão,
Ta chính gia nô của các ngài.
27. Hiện nay hai vị ở rừng nào?
Này hởi Sa-ma, hãy nói mau,
Ta thề bảo vệ, nuôi hai vị
Như chính người làm tự bấy lâu.
Bậc Đại Sĩ đáp:
– Thế thì tốt quá, xin Đại vương nuôi nấng cha mẹ ta dùm.
Rồi ngài chỉ đường cho vua:
28. Nơi chốn đầu ta đặt ở đây,
Hai trăm tầm chạy giữa rừng cây,
Con đường dẫn đến lều cha mẹ,
Xin đến, làm ơn phụng dưỡng thay.
Sau khi chỉ đường và kiên nhẫn chịu đựng đau đớn khủng khiếp vì lòng thương yêu cha mẹ, ngài kính cẩn chấp tay lại, thỉnh cầu vua một lần cuối hãy nuôi dưỡng cha mẹ thay mình:
29. Cung kính lễ ngài, bậc Đại vương,
Ngài đi như vậy đúng con đường,
Mù lòa, cha mẹ ta đơn độc,
Xin bảo vệ, nuôi dưỡng, đoái thương.
30. Kính lễ Kà-si Chúa thượng ôi,
Hai tay ta chắp khẩn cầu ngài,
Nhân danh ta gửi về cha mẹ
Lời nhắn nhủ ta đã nói rồi.
Vua nhận lời ủy thác và bậc Đại Sĩ, sau khi nói xong lời nhắn nhủ cuối cùng, liền bất tỉnh.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
31. Sà-ma với vẻ mặt hiền lương,
Đã nói lời này với Đại vương,
Rồi ngất lịm dần vì thuốc độc,
Nằm mê man tựa bỏ thân tàn.
*
Từ trước đến giờ ngài cố gắng thốt ra những lời lẽ trên như thể người bị hụt hơi, nhưng đến đây tiếng nói đã đứt quãng vì toàn thân, tim óc, sinh lực của ngài đều lần lượt chịu tác động dữ dội của thuốc độc, nên miệng và mắt ngài khép lại, tay chân cứng đờ, toàn thân đẫm máu. Vua kêu lên:
– Người này đang nói với ta cho đến giờ phút này, bỗng dưng tại sao lại hết thở vô ra rồi kìa? Các cơ quan đã ngưng hoạt động, thân thể đã cứng đờ, chắc chắn Sà-ma đã chết rồi,
Và không thể nào ngăn được sầu thương, vua đấm vào đầu than khóc thảm thiết.
*
Đến đây bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:
32. Đau đớn nhà vua đã khóc than:
– Trước kia chưa xảy đến tai nạn,
Ta không hề biết già rồi chết,
Trời hỡi, giờ ta biết rõ ràng!
33. Nay thấy mọi người phải chết thôi,
Chính Sà-ma cũng chết, than ôi!
Chàng vừa khuyên nhủ, lời trăn trối,
Khi hấp hối từ giã cõi đời.
34. Địa ngục đày, ta đọa hiển nhiên,
Thánh nhân bị giết đó, nằm yên,
Mọi người thôn xóm nào ta gặp,
Sẽ nói đồng thanh tội lỗi trên.
35. Sống ở rừng hoang vắng vẻ này,
Họ tên ta có kẻ nào hay?
Đây miền hiu quạnh không người ở,
Ai sẽ nhắc ta mối nhục này?
*
Lúc bấy giờ có một nữ thần tên gọi Bahusodarì ở tại núi Gandhamàdana (Hương Sơn) đã là mẹ của Bồ-tát cách đây bảy đời trước của ngài, vẫn thường tưởng nhớ đến ngài với tình mẹ thương con; nhưng ngày hôm đó vì ham tưởng lạc thú thiên giới nên bà không nhớ đến ngài như thường lệ. Các bằng hữu của bà lại bảo bà đã đi dự hội họp trên thiên giới cho nên đã im hơi lặng tiếng.
Bỗng nhiên bà nghĩ đến ngài đúng lúc ngài đang bất tỉnh. Bà tự nhủ: “Việc gì đã xảy ra cho con ta?” và bà nhìn thấy vua Piliyakkha đã giết ngài bằng mũi tên tẩm thuốc độc bên bờ sông Migasammatà, ngài đang nằm trên bờ cát, còn nhà vua đang than khóc thảm thiết. “Nếu ta không đến đó thì con ta sẽ chết, vua sẽ đau đớn lắm, còn cha mẹ Sà-ma sẽ chết đói, chết khát. Nhưng nếu ta đến, thì vua sẽ mang bình nước lại cho cha mẹ của con ta. Sau khi nghe họ nói, vua sẽ dẫn họ đến gặp con, rồi ta và họ sẽ cùng thành tâm thực hiện lời nguyền trang nghiêm để đánh tan chất độc trong thân thể Sàma cho con ta sống lại. Cha mẹ của con ta lại được sáng mắt ra và sau đó khi đã nghe Sàma thuyết giảng, vua sẽ làm bố thí lớn và được tái sinh lên cõi trời, vậy ta phải đi liền”. Thế rồi bà đến bờ sông Migasammatà, và tàng hình đứng trên không, thuyết Pháp cho vua nghe.
*
Đến đây bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề này:
36. Thần nữ ẩn mình giữa cõi không,
Ở trên thượng đỉnh của Hương Sơn,
Rót vài câu kệ vào tai nọ,
Vì bởi xót thương vị chúa công:
37.- Ngài đã tạo ra một ác hành,
Tội kia đè nặng ở trên mình,
Mẹ, cha, con thảy đều vô tội,
Mũi tên ngài giết cả gia đình.
38. Đến đây ta bảo với ngài nào:
Tìm chỗ trú an nương tựa vào,
Cấp dưỡng người mù rừng vắng nọ,
Tâm ngài sẽ hạnh phúc dường bao!
Nghe nữ thần dạy bảo, vua tin lời bà ngay rằng nếu đi phụng dưỡng hai kẻ mù lòa đó, vua sẽ được lên thiên giới. Vì thế vua quyết định: “Ta còn cần gì ngai vàng nữa, ta sẽ bỏ đi và hết lòng phụng dưỡng họ”. Sau một hồi tuôn trào lời than khóc, vua cố nén nỗi sầu bi vì cho rằng Sàma đã chết thật rồi, vua làm lễ cung kính thi thể ngài với đủ loại hoa thơm, vẩy nước lên thi thể ngài, đi diễu quanh ba vòng, thân phía bên hữu hướng về thi thể và lễ bái khắp bốn phương. Rồi vua cầm bình nước đã được giao và đi về hướng nam, lòng nặng trĩu u sầu.
Đến đây, bậc Đạo Sư giải thích thêm qua vần kệ:
39. Sau một hồi tuôn lệ khóc than,
Thương chàng xấu số nửa chừng xuân,
Vua liền tiến lại cầm bình nước,
Và hướng mặt đi đến phía nam.
*
Nhà vua vốn là người mạnh khỏe, nên cầm bình nước cương quyết băng rừng đến am ẩn sĩ và cuối cùng cũng đến trước cửa am hiền giả. Hiền giả đang ngồi trong am, nghe tiếng chân người đến gần, phân vân không biết là ai, liền thốt lên lời kệ:
40. Ta đang nghe các bước chân này,
Một kẻ nào đi đến lối đây,
Không phải tiếng chân Sàma bước,
Xin nói, thưa ngài, cho lão hay.
Vua nghe nói liền suy nghĩ: “Nếu ta bảo thật cho ông lão biết ta đã giết con ông và không nói rõ ta là vua thì họ sẽ phẫn nộ và mắng chửi ta, và lòng sân hận của ta sẽ nổi lên khiến ta xúc phạm đến họ, lại càng gây thêm tội ác; nhưng thường tình ai gặp vua mà lại không kinh sợ, vậy ta phải nói cho họ biết”. Vì thế vua đặt bình vào đúng chỗ, rồi đứng trước cửa am nói to:
41. Kà-si Chúa tể chính là ta,
Tên được gọi là Pi-yak-kha,
Từ giã ngôi vì thèm món thịt,
Săn nai, phiêu bạt chốn rừng già.
42. Có tài thiện xạ chính ta đây,
Cương quyết lòng ta chẳng chuyển lay,
Chẳng rắn thần nào hòng thoát khỏi,
Một khi đã đến trong tầm tay!
Lão hiền nhân chào mừng vua với tình thân hữu, và đáp lời:
43. Kính mừng vạn tuế Đấng Quân vương!
Hạnh ngộ ngài đi lạc bước đường,
Chúa thượng vinh quang và vĩ đại,
Sứ mạng gì xin được tỏ tường?
44. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
Kà-su-mà trái ngọt ngào thay,
Dù còn chỉ ít oi đôi chút,
Chọn thứ thiệt ngon có sẵn đây.
45. Nước mát này từ dưới động sâu,
Ẩn mình trên một ngọn đồi cao,
Kính mời Chúa thượng, xin ngài ngự,
Cầm lấy, uống vào thỏa ước ao.
Vua nghe lời tung hô nọ liền nghĩ: “Nếu ta nói ngay với ông lão rằng ta vừa giết chết con lão thì thật là thất sách. Vậy ta phải khởi đầu câu chuyện như ta chẳng biết gì cả, rồi sẽ nói sau”. Vì thế vua hỏi:
46. Sao ngươi mù lẩn quẩn rừng hoang,
Các trái này đây ai đã mang?
Người ấy phải là người sáng mắt,
Hái nhiều loại tích trữ kho hàng.
Lão hiền nhân ngâm hai vần kệ sau cho biết hai vợ chồng lão không đi hái trái mà con trai đã mang về:
47. Sà-ma, con trẻ tuổi hoa niên,
Tầm thước, đẹp sao mắt ngắm xem,
Tóc dài, đen nhánh quanh đầu nọ,
Cứ cuộn tròn trông thật tự nhiên.
48. Đem trái cây rồi lại bước ra,
Vội đi đổ nước đầy bình ta,
Sẽ quay trở lại tức thì đó,
Đường đến bờ sông cũng chẳng xa.
Vua đáp lời:
49. Sà-ma hiếu tử của hai người,
Người tả đẹp sao, tốt tuyệt vời,
Ta đã giết chàng nằm ở đó,
Tóc đen kia nhuộm máu hồng rồi!
Chòi lá của Parikà gần đó, trong lúc bà ngồi nghe giọng nói của vua, bà lo ngại không biết việc gì đã xảy ra và khi đi đến gần men theo sợi dây thừng, bà kêu lên:
50. Cho biết là ai, Du-kù-la,
Nói rằng con bị giết, Sà-ma,
“Sà-ma đã chết”, đây tin dữ,
Như xẻ làm đôi tim của ta!
51. Như thể chồi cây sung trẻ non,
Bị cơn gió mạnh xé lìa tan,
“Sà-ma đã chết”, nghe tin ấy,
Đau khổ làm ta nát ruột gan.
Lão nhân khuyên nhủ bà:
52. Đây là Chúa tể nước Kà-si,
Cung ác của ngài đã giết đi,
Con của chúng ta bên bến nước,
Song ta đừng có rủa nguyền gì.
Parikà đáp lại:
53. Chỗ dựa, con yêu, độc nhất đời,
Trông mong, chờ đợi mãi không thôi,
Sao tâm chứa đủ niềm căm hận,
Với kẻ ra tay giết hại người?
Lão nhân nói lớn:
54. Chỗ dựa, con yêu độc nhất đời,
Trông mong, chờ đợi mãi không thôi,
Nhưng hiền nhân cấm ta căm hận,
Với kẻ ra tay giết hại người!
Rồi cả hai ông bà đều lớn tiếng khóc than đấm ngực tán thán công đức của Bồ-tát. Lúc đó vua cố hết sức an ủi hai vị:
55. Thôi đừng khóc nữa, ta van người,
Vì trẻ Sà-ma bạc phận rồi,
Ta sẽ phụng thờ hai vị mãi,
Đừng buồn như thể quá đơn côi.
56. Ta đây thành thạo với cây cung,
Lời hứa ta cương quyết thủy chung,
Ta sẽ hầu bên hai vị mãi.
Và nuôi hai vị ở trong rừng.
57. Ta sẽ đi tìm miếng thịt nai,
Đủ dùng củ, rễ, trái cây tươi,
Rồi ta hầu hạ bên hai vị,
Ta chính gia nô của các người,
Hai ông bà lão liền phản đối vua:
58. Chuyện này chẳng phải đạo, Quân vương,
Chẳng thích hợp đâu, trái lẽ thường,
Ngài chính là Quân vương hợp pháp,
Chúng thần xin đảnh lễ đôi chân.
Khi nghe vậy vua rất hoan hỷ nghĩ thầm: “Thật kỳ diệu thay! Họ đã không mở lời hung hăng trách mắng ta là kẻ gây tội lỗi, lại còn tiếp đón ta thật ân cần”. Rồi vua ngâm kệ:
58. Sơn nhân tuyên bố lẽ công bằng,
Tiếp đón như vầy thật chí thân,
Ngài chính từ đây cha của trẫm,
Và bà là mẹ của thần dân.
Cả hai ông bà đều cung kính giơ tay lên trời thỉnh cầu vua.
– Chúng tôi không dám nhờ Đại vương phụng dưỡng, chỉ mong Đại vương cầm đầu cây gậy dẫn chúng tôi đến chỗ Sà-ma nằm.
Rồi họ ngâm hai vần kệ:
59. Kà-si Chúa tể thật huy hoàng!
Ngài sẽ làm dân tộc phú cường,
Xin hãy đưa ta đi đến chỗ,
Sà-ma yêu quý của ta nằm.
60. Tại đó, ta quỳ xuống dưới chân,
Chúng ta sờ mắt, mũi, toàn thân,
Chúng ta quyết đợi chờ thần chết,
Kiên nhẫn bên con mãi đến cùng.
Trong lúc họ đang nói chuyện thì mặt trời lặn. Vua nghĩ thầm: “Bây giờ nếu ta đưa họ đến đó, họ sẽ tan nát cõi lòng trước cảnh đau thương và nếu ba mạng người chết vì ta, thì chắc chắn ta sẽ đọa vào địa ngục. Thôi ta đừng dẫn họ đến đó nữa”. Thế rồi vua ngâm ba vần kệ này:
61. Một vùng đầy dã thú săn mồi.
Như tận cùng biên giới cõi đời,
Chính chỗ Sà-ma nằm hiện tại,
Như vầng trăng rụng xuống trần rồi.
62. Một vùng đầy dã thú săn mồi.
Như tận cùng biên giới cõi đời,
Chính chỗ Sà-ma nằm hiện tại,
Như vầng duong rụng xuống trần rồi.
62. Ở chốn tận cùng của thế gian,
Chàng nằm, bụi, máu, phủ lên chàng,
Vậy nên ở lại trong am thất,
Đừng mạo hiểm trong chốn núi ngàn.
Hai ông bà đáp lời chứng tỏ lòng gan dạ của họ:
64. Mặc loài dã thú phá tan hoang,
Hàng vạn triệu con cứ ngập tràn,
Ta chẳng sợ đâu bầy dã thú,
Chúng không thể hại đến thân tàn.
Như thế vua không thể ngăn cản họ được, đành phải cầm tay dắt họ đến đó.
Khi đến nơi, vua bảo:
– Con trai của hai vị nằm đây rồi.
Ông lão liền ấp đầu vào lòng con và bà mẹ gục đầu xuống chân con khóc lóc thảm thiết.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ này để làm sáng tỏ vấn đề;
65. Lấm bụi và tan nát ruột gan,
Vừa nhìn cảnh tượng Sà-ma nằm,
Họ quỳ xuống giống như nhìn thấy,
Vầng nhật nguyệt rơi rụng xuống trần;
Cha mẹ giơ cao đôi tay họ,
Khóc than thật thống thiết muôn phần.
66. -Phải chăng con ngủ hỡi Sà-ma,
Con giận hờn, quên cả mẹ cha?
Hãy nói việc gì làm mệt trí,
Khiến con nằm chẳng trả lời ta?
67. Ai sẽ, bây giờ, kết tóc ta,
Rồi ai sẽ phủi bụi trong nhà,
Khi Sà-ma chẳng còn đây nữa,
Ở lại chỉ hai kẻ mắt lòa?
68. Ai sẽ quét sàn cho chúng ta,
Ai đem nước nóng, lạnh bây giờ,
Ai tìm củ, quả rừng về nữa,
Cô độc, già, mù cả mẹ cha?
Bà mẹ than khóc đấm ngực hồi lâu, rồi suy xét kỹ nỗi sầu thương của mình, bà tự nhủ: “Tất cả chuyện đau thương này là do con ta bị hôn mê vì chất độc quá mạnh, vậy ta phải thành khẩn thề nguyền để giải độc cho con”. Vì thế bà thực hiện một lời thề Chân lý qua các vần kệ sau:
70. Nếu quả thật là thuở trước đây,
Sà-ma luôn sống chánh chân đầy,
Cầu mong thuốc độc trong dòng máu,
Mất hết hiệu năng, vô hại ngay.
71. Nếu thuở trước con nói thật chân,
Ngày đêm lo phụng dưỡng song thân,
Cầu mong thuốc độc trong dòng máu,
Mất hết công năng, hạ xuống dần.
72. Công đức ngày xưa đã tạo ra,
Chính ta và cả lão thân gia,
Cầu mong giải độc cho tan hết,
Con trẻ quý yêu được tỉnh ra.
Sau khi bà trang nghiêm thề nguyền như vậy, Sàma bỗng nghiêng mình và khi ông cha cũng thành khẩn thề nguyền như vậy thì Sàma xoay người sang phía bên kia. Sau đó nữ thần cũng lập lại lời thề nguyền trang nghiêm như vậy.
Bậc Đạo Sư giải thích thêm qua các vần kệ:
73. Thần nữ ẩn mình giữa cõi không,
Ở trên thượng đỉnh của Hương Sơn,
Thực hành lời nguyện cầu chân lý,
Vì với Sà-ma, dạ xót thương.
74. -Ở đây trên thượng đỉnh Hương Sơn
Ta đã chọn đời sống độc đơn,
Trong chốn rừng sâu thăm thẳm ấy
Mọi loài hoa tỏa ngát hương thơm.
75. Không có một ai giữa thế nhân,
Còn thân thiết đối với ta hơn,
Vì đây quả thật là chân chánh,
Mong chất độc trong máu thoát dần.
76. Trong khi thương xót họ thay phiên,
Chứng thực trang nghiêm, họ phát nguyền,
Kìa thấy Sà-ma vùng đứng dậy,
Xinh tươi, cường tráng, thật hồn nhiên.
Thế là bậc Đại Sĩ đã phục hồi khỏi vết trọng thương, cha mẹ ngài lại phục hồi thị giác, bình minh cũng vừa xuất hiện. Các phép lạ ấy xảy ra cùng một lúc tại chốn am tranh nhờ thần lực của tiên nữ. Đôi cha mẹ vui mừng không sao kể xiết khi thấy mình sáng mắt ra và con trai họ đã phục sinh . Lúc ấy Sà-ma ngâm kệ này:
77. Con chính Sà-ma được vạn an,
Nhìn con trước mặt, hãy hân hoan,
Hãy lau khô hết đôi dòng lệ,
Và đón chào con, hạnh phúc tràn.
78. Vạn tuế, cầu mong bậc Đại vương,
Phước phần phục vụ lệnh ngài luôn,
Ngài là chúa tể thần dân đó,
Ước nguyện gì xin hãy tỏ tường.
79. Tin-duk, pi-yal, ma-dhuk tươi,
Trái cây quý hiếm nhất, xin mời,
Dâng lên thượng khách, ngon như mật.
Ngài ngự dùng cho thỏa ý ngài
80. Nước mắt đây từ dưới động sâu
Ẩn mình trên một ngọn đồi cao,
Suối trong làm dịu ngay cơn khát,
Ngài ngự dùng cho thỏa khát khao.
Vua nhìn cảnh tượng kỳ dịu này liền nói to:
81. Ta lạ lùng kinh ngạc biết bao,
Ta không thể nói hướng phương nào,
Một giờ trước thấy chàng nằm chết,
Nay sống dậy đây thật nhiệm mầu!
Sà-ma nghĩ thầm: “Vua tưởng ta đã chết, vậy ta phải giải thích rõ là ta vẫn còn sống” và ngài nói:
82. Một người đầy đủ các công năng,
Tình cảm, tâm tư chẳng thoát thân,
Vì bất tỉnh là ngưng hoạt động,
Người ngoài tưởng kẻ ấy từ trần.
Rồi muốn cho hiểu rõ ý nghĩa thật sự của chuyện này, ngài ngâm kệ thuyết pháp:
83. Các thế nhân theo Pháp chánh chân,
Chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân,
Chư thiên nhìn thấy lòng con hiếu,
Và đến chữa lành các bệnh luôn.
84. Các thế nhân theo Pháp chánh chân,
Chăm nuôi cha mẹ lúc gian truân,
Chư thiên thế giới này ca tụng,
Đời kế cõi thiên hưởng phước phần.
Vua nghe vậy nghĩ thầm: “Thật kỳ diệu thay, ngay cả các thiên thần cũng xuống trần chữa lành bệnh cho người phụng thờ cha mẹ, khi kẻ này bị bệnh hoạn, chàng Sà-ma này thật vinh quang vượt bậc”.
Rồi vua ngâm kệ:
85. Ta lạ lùng kinh ngạc biết bao,
Ta không thể thấy hướng phương nào,
Sà-ma, ta đến nhờ chàng giúp,
Chàng chính là nơi ta trú vào.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ nói:
– Tâu Đại vương, nếu Đại vương muốn lên thiên giới và hưởng an lạc ở đó, thì Đại vương phải thực hành Mười phận sự như sau:
Rồi ngài ngâm kệ về vấn đề này:
86. Trước tiên là đối với song thân,
Ngài phải làm tròn phận sự luôn,
Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
Sẽ đưa ngài đến cõi Thiên nhân.
87. Đối với vương phi, với các con,
Phải làm tròn phận sự, Quân vương,
Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
Sẽ đưa ngài đến cõi Thiên nhân.
88. Với thân bằng và các triều thần,
Binh sĩ trong tất cả đạo quân,
Với các thôn làng và thị trấn,
Giang sơn ngài với mọi tùy tùng.
89. Với người thanh tịnh, Bà-la-môn,
Ẩn sĩ, thú, chim, hỡi Chúa công,
Phận sự hoàn thành trên cõi đất,
Sẽ đưa ngài đến cõi thiên thần.
90. Phận sự tròn đem lại phước ân,
Phạm thiên, Đế Thích, các thiên thần,
Nhờ làm phận sự đầy an lạc,
Vậy phải hoàn thành phận thế nhân.
Sau khi thuyết giảng Thập vương pháp cho vua xong, bậc Đại sĩ còn thuyết giảng thêm nhiều pháp nữa và dạy vua giữ Năm giới. Vua cuối đầu tín thọ lời thuyết giảng và sau khi cung kính từ tạ ra về, liền trở lại Ba-la-nại thực hành đại bố thí cùng nhiều công đức khác, rồi đi theo nghiệp của mình cùng với triều thần gia nhập hội chúng thiên giới. Còn Bồ-tát cùng với cha mẹ ngài đều đạt các Thắng trí và nhiều cấp độ Thiền chứng khác nhau, rồi đi lên cõi Phạm thiên.
*
Sau khi thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư bảo:
– Này các Tỷ-kheo, người hiền phụng dưỡng cha mẹ là một phong tục tối cổ.
Rồi ngài tuyên thuyết các Sự Thật (sau đó vị Tỷ-kheo đắc quả Dự-Lưu) và nhận diện tiền thân:
– Vào thời ấy, vua là Ànanda (A-nan), nữ thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Thiên chủ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), người cha là Kassapa (Ca-diếp), người mẹ là Bhaddakàpilàni và Sàma chính là Ta.
-ooOoo-
541. Chuyện đại vương Nimi (Tiền thân Nimi)
Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra…,
Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong khi trú tại vườn xoài của vua Makhàdeva gần thành Mithilà, về một nụ cười.
Một buổi chiều nọ, bậc Đạo Sư cùng hội chúng đông đảo Tỷ- kheo đang dạo chơi trong vườn xoài, Ngài chợt thấy một nơi hợp ý Ngài. Vì muốn kể lại hành nghiệp của Ngài ở thời quá khứ, ngài liền để lộ một nụ cười trên khuôn mặt cho hội chúng chiêm ngưỡng. Khi Tôn giả Ànanda hỏi tại sao ngài mỉm cười, Ngài đáp:
– Này Ànanda, ở chỗ kia, ngày xưa Ta đã nhập Thiền định vào thời vua Makhàdeva.
Rồi theo lời thỉnh cầu của Tôn giả, đức Thế-tôn ngồi xuống nơi Tôn giả mời Ngài, và kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở xưa, ở quốc độ Videha, trong kinh thành Mithilà có một vị vua tên là Makhàdeva. Khi còn thanh xuân, vua hưởng dục lạc trong khoảng tám mươi bốn ngàn năm, kế đó Ngài làm thái tử trong tám mươi bốn ngàn năm rồi Ngài lên làm vua trong tám mươi bốn ngàn năm nữa.
Lúc bấy giờ Ngài bảo người thợ hớt tóc phải báo cho ngài biết ngay khi gã thấy sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu Ngài. Thời gian qua, khi người ấy thấy sợi tóc bạc liền tâu với vua, vua bảo gã lấy nhíp nhổ ra để lên tay Ngài, Ngài thấy như thể thần chết đang bám vào trán Ngài vậy. Ngài nghĩ thầm: “Bây giờ đã đến lúc ta phải rời thế tục”. Vì thế Ngài cho phép người hớt tóc lựa chọn một làng theo ý gã, còn ngài cho triệu thái tử đến giao việc triều chính cho thái tử, vì là Ngài sẽ xuất gia.
– Tâu phụ vương, tại sao vậy? Thái tử hỏi.
Ngài đáp:
1. Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra,
Cướp dần đời sống tháng năm qua,
Chúng là thiên sứ nhắc ta nhớ,
Nay đến thời ta phải xuất gia.
Cùng với những lời này, Ngài phong vương cho con theo nghi lễ quán đảnh (rảy nước thánh trên đầu), huấn dạy tân vương phép trị nước, rồi Ngài rời kinh thành, sống theo đời của một sa-môn. Suốt tám mươi bốn ngàn năm ngài tu tập Tứ Vô lượng Tâm (bốn phạm trú: Từ, bi, hỷ, xả), rồi Ngài được sinh lên Phạm thiên giới.
Con của Ngài cũng theo gương cha, xuất thế và được sinh lên Phạm thiên giới. Các hoàng tử về sau cũng vậy, cứ lần lượt xuất gia bốn mươi tám ngàn vị thiếu hai. Khi thấy sợi tóc bạc đầu tiên xuất hiện, vị ấy liền ẩn cư trong vườn xoài, hành trì Tứ Vô lượng Tâm và được sinh lên Phạm thiên giới.
Là vị vua đầu tiên trong hoàng tộc được sinh cõi này, vua Makhàdeva đứng trên Phạm thiên giới nhìn xuống số phận của hoàng tộc, Ngài rất hoan hỷ khi thấy gần tám mươi bốn hoàng tử đã xuất gia. Ngài suy nghĩ: “Sẽ có Niết-bàn bây giờ hay không?” Ngài thấy là không thể có được, nên Ngài quyết định chính Ngài chứ không ai khác nữa phải kế tục sự nghiệp hoàng gia. Vì thế Ngài từ thiên giới xuống nhập mẫu thai hoàng hậu của vị vua thành Mithilà.
Vào ngày đặt tên, các nhà tiên tri nhìn các tướng mạo của hài nhi, đồng tâu:
– Tâu Đại vương, vương tử này ra đời để kế tục sự nghiệp hoàng gia. Sẽ không có vị nào trong hoàng tộc làm ẩn sĩ nữa.
Nghe vậy, vua bảo:
– Hài nhi này ra đời để nối nghiệp hoàng gia như thể chiếc vành bánh xe vậy.
Vì thế Ngài đặt tên con là: Nimi-kumàra hay vương tử A Luân.
Từ thuở ấu thơ, vương tử này đã chuyên tâm bố thí, làm công đức, giữ giới luật Bồ-tát. Khi vua cha theo lệ thường, trông thấy sợi tóc bạc đầu tiên, liền ban một ngôi làng cho người hớt tóc, phong vương cho con rồi trở thành ẩn sĩ trong vườn xoài và được sinh lên Phạm thiên giới.
Còn vua Nimi chuyên tâm bố thí, nên đã lập năm bố thí đường tại bốn cổng thành và ngay chính giữa thành để thực hành đại bố thí. Trong mỗi bố thí đường, Ngài ban phát một trăm ngàn đồng tiền, thế là Ngài phát ra năm trăm ngàn đồng tiền mỗi ngày. Ngài thường xuyên giữ Ngũ giới, vào các ngày rằm Ngài giữ giới hạnh Bố-tát. Ngài khuyến khích dân chúng bố thí và làm công đức, Ngài chỉ dạy cho họ con đường đi lên thiên giới, khiến họ thấy kinh sợ thần chết. Rồi Ngài thuyết pháp cho họ nghe.
Dân chúng tin theo lời thuyết giảng của Ngài, bố thí, làm lành, nên khi từ trần đều lần lượt được sinh lên thiên giới, vì thế thiên giới trở nên đông đảo, còn địa ngục như thể trống vắng.
Lúc ấy ở cõi trời Ba mươi ba, chư Thiên đang tụ họp tại Thiện Pháp đường (Sudhammà) đồng thanh hô to:
– Hoan nghênh bậc sư trưởng của chúng ta, Đại vương Nimi vạn tuế! Chính nhờ Ngài hành thiện nghiệp, nhờ tri kiến Phật của Ngài mà chúng ta đã đạt được an lạc vô biên ở thiên giới này.
Như thế họ tán thán công đức của bậc Đại Sĩ. Ngay trong cõi nhân gian tiếng tán thán cũng lan tràn khắp nơi như dầu loang trên mặt biển cả.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này cho hội chúng Tỷ-kheo qua các vần kệ sau:
2. Quả thật diệu kỳ ở thế gian,
Các hiền nhân đã được vinh thăng,
Vào thời minh chúa Ni-mi ấy,
Thánh giả, hiền nhân đã ngập tràn.
3. Vi-đề-ha, đại đế ngày xưa,
Bậc chiến thắng bao kẻ địch thù,
Trong lúc ngài thi hành bố thí,
Vẫn thường sinh khởi mối suy tư:
“Điều gì đem lại nhiều thành quả,
Bố thí? Tu hành? Ai bảo cho?
Lúc ấy cung của Sakka Thiên chủ (Đế Thích) bỗng nóng rực lên. Thiên chủ tìm hiểu lý do, thấy vua đang suy nghĩ như vậy, ngài nói:
– Ta sẽ giải quyết vấn đề này.
Rồi ngài ra đi, bỗng chốc đã biến hoàng cung thành một vùng sáng lòa, ngài bước vào điện sừng sững tỏa hào quang rực rỡ và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài làm sáng tỏ mọi sự.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
4. Đại đế chư thiên, đấng vạn năng,
Là ngài ngàn mắt [*] tỏa hào quang,
Nhận ra tư tưởng trong vua ấy,
Trước ánh sáng ngài, bóng tối tan.
[*] Sahassakkka: Sakka có ngàn mắt.
Đại đế Nimi tâu Thiên chủ Vàsava (tức Sakka), trong lúc toàn thân rợn thịt da:
5. Ngài là ai, có phải Thiên thần,
Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
Vì trẫm chưa từng nghe hoặc thấy,
Hào quang như vậy ở trên trần.
Sau đó Thiên chủ Vàsava nói với vua Nimi, vì biết vua đang rợn cả thịt da:
6. Ta chính Sak-ka Thiên chủ đây,
Đến thăm ngài chính ở nơi này,
Hỏi điều ngài muốn, kìa Hoàng thượng,
Chớ rợn thịt da sợ hãi vầy!
Rồi vua Nimi hỏi Thiên chủ Vàsava, khi nghe lời mời này:
7. Sak-ka Thiên chủ đấng toàn năng,
Giải quyết cho ta nỗi khó khăn:
Bố thí hay tu hành Thánh hạnh,
Việc gì đem kết quả nhiều hơn?
8. Rồi Và-sa lại bảo Ni-mi
Giải quyết cho vua chính vấn đề,
Nói quả tu hành đời Thánh hạnh,
Với nhà vua ấy vẫn vô tri:
9. Người sinh làm một Khat-ti-ya,
Kẻ sống đời thanh tịnh bậc ba,
Một vị Thiên thần vào bậc giữa,
Thánh hiền bậc nhất đạt tinh hoa.
10. Nhờ bố thí thôi khó đạt thành,
Như vầy những quả vị an lành,
Những gì bậc Thánh nhân xuất thế
Chứng đắc nhờ tu tập khổ hành.
Qua các vần kệ này, Ngài làm sáng tỏ thành quả vĩ đại của đời tu hành, rồi Ngài đọc các bài kệ khác, nêu tên các vị vua trong quá khứ đã không thể vượt qua Dục giới nhờ thực hành đại bố thí, đó là các vị vua:
11. Du-dì-pa, Sà-ga-ra, Se-la,
Mu-ca-lin-da, Bhagì-ra-sa,
U-sì-na-ra và At-tha-ka,
As-sa-ka và Pu-thuj-ja-na.
12. Các vua, giáo sĩ, Khat-ti-ya,
Và biết bao nhiêu kẻ đã qua,
Vì chỉ chuyên thi hành tế lễ,
Không ai vượt khỏi cảnh Pe-ta.
Sau khi giải thích thành quả của đời sống tu hành cao hơn hẳn thành quả của bố thí. Như vậy ngài nêu rõ những vị ẩn sĩ nhờ sống đời Thánh hạnh đã vượt qua thế giới Peta (ma quỷ) và được sinh lên Phạm thiên giới, rồi ngài nói:
13. Và đây bảy ẩn sĩ hiền nhân,
Những vị đã siêu thoát cõi trần:
Yà-ma-ha-nu, So-ma-yà-ga,
Ma-no-ja-va, Sa-mud-da,
Mà-gha, Bha-ra-ta, Kà-li-ka-ra.
Còn có bốn hiền nhân khác nữa:
Kas-sa-pa, An-gì-ra-sa,
A-kit-ti, Ki-sa-vac-cha,
Thảy đều lên cõi Phạm thiên thần.
Từ trước đến giờ ngài theo truyền thuyết mô tả thành quả vĩ đại của đời Thánh hạnh, bây giờ ngài tiếp tục tuyên bố những gì chính ngài đã thấy:
14. Sì-dà phương bắc, một trường giang,
Sâu thẳm, thuyền bè khó vượt ngang,
Quanh nó, giống như rừng lửa sậy,
Sáng ngời các dốc núi màu vàng.
15. Cát đằng bao phủ ở quanh vùng,
Thơm ngát cây trên núi dưới sông,
Ở đó mười ngàn nhà ẩn sĩ.
Một thời đã trú ngụ tu thân.
16. Ta giữ lời nguyền của Thánh nhân,
Chuyên tâm tiết dục, tự điều thân,
Thực hành bố thí, đời đơn độc,
Chăm sóc tâm từng bước vững vàng.
17. Bất cứ ở trong đẳng cấp nào,
Phải tìm bậc Thánh để theo hầu,
Vì con người thảy đều ràng buộc,
Do chính mọi hành nghiệp bấy lâu.
18. Xa chánh đạo, tất phải đọa thân,
Vào miền địa ngục mọi giai tầng,
Mọi giai tầng trở thành thanh tịnh,
Nếu tạo thiện hành, sống chánh chân.
Sau đó ngài bảo:
– Tuy nhiên, này Đại vương, mặc dù đời tu hành đạt kết quả cao hơn bố thí nhiều, các bậc đại nhân đều phải lưu tâm đến cả hai việc này: Bố thí và giữ giới hạnh.
Với lời nhủ này, Thiên chủ trở về cảnh giới của ngài.
Lúc ấy hội chúng chư Thiên giới liền hỏi ngài:
– Tâu Thiên chủ, lâu nay chúng con không được yết kiến Thiên chủ, chẳng hay ngài ở đâu vậy?
– Này các hiền giả, vua Nimi ở thành Mithilà đang có mối hoài nghi trong lòng nên ta phải đi giải quyết vấn đề để vua khỏi nghi ngờ nữa.
Rồi ngài tả sự việc qua các vần kệ:
19. Này chư Thiên hãy lắng nghe ta,
Tất cả đây tề tựu nảy giờ:
Các bậc chánh nhân đều khác hẳn,
Cả về đẳng cấp lẫn tài hoa.
20. Ni-mi chúa tể ở phàm trần,
Là bậc trí hiền đức, chánh chân,
Vua nước Vi-đề, chuyên bố thí,
Là người chiến thắng các cừu nhân.
21. Trong lúc ngài ban phát rộng tay,
Khởi sinh trong trí mối nghi này:
“Điều gì kết quả nhiều hơn hẳn,
Bố thí? Tu hành? Ai có hay?”.
Sau đó Ngài kể các đức tính của vua, không sót điều gì khiến chư Thiên mong ước được gặp vua, liền nói:
– Tâu Thiên chủ, vua Nimi là bậc sư trưởng của chúng con, nhờ lời dạy bảo của Ngài, cùng các phương tiện của Ngài, chúng con đã đạt được niềm an lạc trên Thiên giới. Chúng con ao ước được gặp Ngài. Vậy xin Thiên chủ hãy cho mời Ngài đến để chúng con được bái yết Ngài.
Thiên chủ Sakka chấp thuận, truyền gọi thần Màtali đến:
– Này hiền hữu, hãy buộc ngựa vào xa giá của ta, rồi xuống kinh thành Mithilà, rước vua Nimi lên thiên xa và đem Ngài về đây.
Thần Màtali vâng lệnh ra đi. Trong khi Thiên chủ Sakka đàm đạo với chư Thiên và ra lệnh cho Màtali đem xe xuống trần, tính ra đã một tháng trôi qua hạ giới.
Lúc đó đúng ngày trai giới trăng tròn, vua Nimi mở cửa sổ hướng đông ra, ngồi trên lầu, các triều thần vây quanh, suy ngẫm đến công hạnh của mình. Vừa lúc trăng lên ở hướng đông thì thiên xa xuất hiện. Dân chúng đã ăn cơm tối xong, đang cùng nhau trò chuyện thong dong trước cửa:
– Ô kìa! Sao hôm nay, lại có đến hai vầng trăng thế? Họ kêu lên.
Trong lúc họ đang bàn tán thì chiếc xe lộ rõ dần:
– Ồ không phải vầng trăng, mà là chiếc xe ngựa.
Lúc đó đoàn tuấn mã cả ngàn con của thần Màtali cùng xe của Thiên chủ Sakka xuất hiện, dân chúng tự hỏi: “Xe này dành cho ai đây? Phải rồi, vị vua của họ thật anh minh, chắc Thiên chủ Sakka dành xe này cho vị vua của họ rồi, chắc Thiên chủ muốn gặp vua”.
Vì thế họ hoan hỷ reo hò:
22. Một việc diệu kỳ ở thế gian,
Làm ta rợn gáy bởi hân hoan:
Vì Vi-đề Đại vương vinh hiển,
Nên chiếc thiên xa xuống cõi phàm.
Trong lúc dân chúng đang bàn tán mải mê như vậy thì nhanh như gió, Màtali quay xe lại, dừng xe bên song cửa hoàng cung, mời vua lên xe.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
23. Mà-ta-li, đại-lực Thiên thần,
Điều ngự thiên xa của Ngọc hoàng,
Đến thỉnh Vi-đề-ha Chúa tể,
Ở Mi-thi điện: “Tấu minh quân,
Chúa công dưới thế, lên xa giá,
Thiên chủ In-dra với các thần,
Ở cõi Băm ba, cung Thiện pháp,
Đang chờ để yết kiến tôn nhan”.
*
Vua suy nghĩ: “Ta sắp viếng cõi trời mà ta chưa từng biết, vậy ta phải tỏ lòng tri ân đối với thần Màtali”. Thế rồi ngài bảo các cung phi cùng thần dân:
– Chẳng bao lâu ta sẽ trở về trần thế, vậy các người phải chuyên tâm làm việc thiện và bố thí.
Rồi Ngài lên xe.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
24. Khi ấy Vi-đề-ha Đại quân,
Vội vàng tiến đến chiếc xe thần,
Bước vào, khi Đại vương an tọa,
Thần lái thiên xa lại hỏi rằng:
– Thánh chúa, đường nào ngài muốn chọn,
Nơi người ác ở hoặc hiền nhân?
*
Nghe nói vậy, vua liền nghĩ: “Cả hai chốn này ta đều chưa hề thấy bao giờ cả, vậy ta muốn xem cả hai”. Ngài đáp lại:
25. Mà-ta-li, hỡi quản xa thần,
Hai chỗ, ta đều muốn ngắm trông,
Nơi chốn bậc hiền nhân trú ngụ,
Và nơi kẻ ác đọa đày thân.
Màtali suy nghĩ: “Không thể đi xem cả hai nơi cùng một lúc được, vậy ta phải hỏi lại vua xem sao”. Rồi thần ngâm kệ:
26. Chỗ nào đi trước, Đại minh quân,
Nơi trước tiên ngài muốn ngắm trông,
Nơi chốn bậc hiền nhân trú ngụ,
Hay nơi kẻ ác đọa đày thân?
Vua suy nghĩ thế nào ngài cũng sẽ lên Thiên giới và ngài lại ước mong thấy địa ngục, nên ngài ngâm kệ:
27. Ta muốn xem nơi của tội nhân,
Hãy đưa ta đến ngục sau cùng,
Nơi người đã phạm hành vi ác,
Nơi kẻ ác nay đang trú thân.
Lúc ấy Màtali chỉ cho vua thấy dòng sông ở địa ngục, tên gọi Vetarani.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này:
28. Thần lái thiên xa chỉ chúa công,
Dòng sông hôi thối Ve-ta-ran,
Chứa đầy chất nước đang thiêu hủy,
Nóng bỏng, phủ toàn lửa cháy bừng.
Vua kinh hoàng khi nhìn thấy những tội nhân bị hành hạ đau đớn trong dòng sông Vetarani, ngài liền hỏi Màtali họ đã mắc những tội gì, Màtali liền kể lại:
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
29. Vua Ni-mi thấy tội nhân sa xuống,
Dòng sông sâu, liền hỏi Mà-ta-li :
“Ta kinh hoàng thấy cảnh tượng đằng kia,
Những kẻ này phạm tội gì, xin nói,
Mà ngày nay bị sa vào sông thối?”.
30. Thần đáp, nêu tội chín, quả liền sinh:
– Ai trong đời ỷ sức mạnh riêng mình,
Lại ức hiếp kẻ nghèo hèn, yếu đuối,
Kẻ ác kia đã gây bao tội lỗi,
Bị thả vào dòng nước Ve-ta-ran.
Màtali đáp lời vua như vậy. Khi vua đã thấy địa ngục Vetarani rồi, Màtali liền làm cho cảnh này biến mất, rồi lái xe đến xem nơi tội nhân bị các loài chó và ác thú khác xâu xé. Thần Màtali đáp lời vua hỏi như sau.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này :
31. Bầy chó đen, đàn kên kên cùng quạ,
Đang đợi mồi kinh khủng, lúc ta trông,
Mà-ta-li, ta kinh hãi trong lòng,
Tội lỗi gì họ gây ra, xin nói,
Quạ rình ai? Mà-ta-li đáp lại:
32. Nếu tội chín muồi và quả phải mang;
– Những kẻ xan tham, sân hận, nói sàm,
Làm tổn hại Bà-la-môn, ẩn sĩ,
Những kẻ ác đã gây bao tội thế,
Nay làm mồi cho diều quạ, ngài xem!
*
Những câu hỏi khác của vua cũng đều được thần Màtali đáp lại tương tự như trên.
33. Mình rực lửa khi họ nằm phủ phục,
Đống than hồng vùi dập, lúc ta trông,
Mà-ta-li, ta hoảng sợ trong lòng.
Tội lỗi gì các kẻ này phạm phải,
Thần quản xa, nói cho ta biết với,
Nay nằm vùi dập dưới đống than hồng?
34. Mà-ta-li, thần điều ngự, tỏ tường,
Nêu tội lỗi chín muồi mang kết quả:
– Những kẻ này trên đời đầy gian trá
Hành hạ người vô tội, tạo đau thương,
Cả nữ nhi cùng với bọn nam nhân,
Những kẻ ác đã gây tạo tội lỗi,
Nay nằm vùi dưới đống than đỏ ối.
35. Những người kia nằm hố than vật vã,
Gầm thét lên, thân cháy. Lúc ta trông,
Mà-ta-li, ta hoảng sợ trong lòng,
Bọn này phạm tội gì, cho ta rõ,
Ai nằm vẫy vùng trong hầm lửa đỏ?
36. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
Nêu quả mang khi tội đã chín muồi:
– Những người trước đám đông dân chúng,
Làm chứng nhân sai, nợ nần lật lọng,
Làm hại người như vậy, tấu Anh quân,
Những ác nhân này phạm tội bất nhân,
Nay nằm đó vẫy vùng trong hố lửa.
37. Khói lửa rực trời một hầm than đỏ,
Ta thấy kìa chảo sắt lớn gớm ghê,
Khi ta nhìn, lòng sợ hãi tràn trề,
Mà-ta-li, nói cho ta biết với,
Tội lỗi gì các kẻ này mắc phải,
Nay bị thả vào chảo sắt khổng lồ?
38. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua:
Nêu tội lỗi chín muồi mang kết quả:
– Kẻ làm hại Bà-la-môn, hiền giả,
Kẻ xấu xa làm hại các thiện nhân,
Những ác nhân mang ác nghiệp vào thân,
Nay phải chịu rơi đầu vào chảo sắt.
39. Cổ bị tóm thả vào trong chảo sắt,
Đầy nước sôi sùng sục thật kinh hồn,
Mà-ta-li, ta sợ hãi từng cơn,
Tội lỗi nào những kẻ này mắc phải,
Giờ đây đầu nát tan nằm chịu tội?
40. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua :
Nêu tội chín muồi nên quả sinh ra;
– Đó là những ác nhân trên hạ giới,
Bắt chim muông, rồi lại còn sát hại,
Và sát sinh như vậy, hỡi Quân vương,
Do ác hành gây tội lỗi đau thương,
Nay nằm đó với cổ đầu siết chặt.
41. Dòng sông kia sâu thẳm, bờ nông cạn,
Dễ đi qua bờ bên ấy, thế nhân,
Nóng như thiêu, liền uống, nhưng vừa dùng,
Nước thành trấu lửa, khi ta nhìn thấy,
Mà-ta-li, lòng ta đầy kinh hãi,
Nói cho ta, tội lỗi của thế nhân,
Sao uống vào, nước hóa trấu cháy bừng?
42. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
– Đây những người trộn gạo với trấu tro,
Đem bán gian cho những kẻ đi mua,
Nên giờ phải chịu khát thiêu cổ họng,
Nhưng uống vào, nước hóa ra trấu nóng.
43. Bao gươm giáo cung tên đâm xuyên thủng,
Hai bên sườn những kẻ nọ thét gào,
Mà-ta-li,ta kinh hãi, nói mau,
Tội lỗi gì các kẻ kia đã tạo,
Nên ngày nay chịu biết bao gươm giáo,
Phải nằm kia hứng lấy mọi cung tên?
44. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp liền,
Tả tội chín muồi và nay mang quả;
– Kìa những thế nhân lòng đầy gian trá,
Đã lấy của người để sống giàu sang,
Trâu, dê, cừu, ngựa, thóc, lúa, bạc, vàng,
Những ác nhân này gieo trồng tội báo,
Nên giờ đây nằm hứng bao gươm giáo.
45. Những kẻ này bị cột cổ là ai,
Kẻ xé thịt, người chặt xương từng mảng,
Mà-ta-li, lòng ta đầy kinh hoảng,
Nói cho ta tội tạo bởi chúng sinh,
Đang nằm kia thân bị xé tan tành?
46. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
N êu tội chín muồi và nay mang trái:
– Dân chài, hàng thịt, săn bắn hươu nai,
Kẻ giết trâu dê đem bán ở đời,
Những ác nhân đã gây bao tội ác,
Nay nằm kia với tấm thân tan nát.
47. Hồ hôi đầy phân bẩn ở đằng kia,
Mùi thối xông lên, bao người chết đói,
Ăn đồ dơ! Lòng ta đầy kinh hãi,
Khi ta nhìn, hãy nói, Mà-ta-li,
Các thế nhân kia mắc tội lỗi gì,
Nay ta thấy ăn toàn đồ dơ thối?
48. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
Nếu tội chín muồi nay quả phải mang:
– Những kẻ tinh ma ích kỷ hại nhân,
Sống với bạn mà đem lòng hại bạn,
Những ác nhân này đã gây nghiệp chướng,
Nay ăn đồ dơ bẩn tội tình thay.
49. Hồ đằng kia đầy máu đỏ hôi tanh,
Mùi thối xông lên, kìa đám sinh linh,
Khát thiêu họng, uống vào! Ta kinh hãi,
Khi ta nhìn, Mà-ta-li, hãy nói
Bọn người kia đã tạo lỗi lầm gì,
Nên bây giờ phải uống dòng máu kia?
50. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại,
Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
– Những kẻ này đã giết mẹ hoặc cha,
Chúng phải tôn sùng, tội ngỗ nghịch mà,
Bọn ác này đã tạo ra trọng tội,
Chúng đang uống đằng kia dòng máu thối.
51. Kìa lưỡi xuyên ngang bằng cái móc câu,
Như trăm mũi gai trên gỗ cắm vào,
Ai vẫy vùng như cá nằm trên cạn?
Khi thấy người đang thét gào lảm nhảm,
Ta kinh hoàng, hãy nói, Mà-ta-li,
Tội lỗi gì phạm bởi đám người kia,
Nay nằm đó nuốt móc câu như vậy?
52. Mà-ta-li, thần lái xe, đáp lại,
Nêu tội chín muồi và quả phải mang:
– Những thế nhân kia buôn bán chợ hàng,
Tranh giành mua rẻ vì tham tư lợi,
Tưởng đâu che được bao trò gian dối,
Như người câu cá. Nhưng kẻ dối đời,
Phải lâm nguy, bởi nghiệp cũ theo hoài,
Bọn gian ác này đã gây tội ấy,
Đang nằm kia, nuốt móc câu như vậy.
53. Những nữ nhân, tơi tả, đứng giơ tay,
Gào thét lên, khốn khổ, máu bôi đầy,
Như thú trong lò. Thân vùi đến ngực,
Còn nửa người trên lửa thiêu rừng rực!
Ta kinh hoàng cho biết, Mà-ta-li,
Đám nữ nhân kia phạm tội ác gì,
Nay phải đứng chôn vùi trên mặt đất,
Nửa người trên lửa đang thiêu hừng hực,
Phần nằm sâu dưới đất đến nửa người?
54. Mà-ta-li, khi ấy vội đáp lời,
Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
– Những kẻ kia cao sang trên thế giới,
Đời sống dâm ô, gây nghiệp bất nhân,
Phản bội, trốn chồng làm việc vô luân,
Để thoả mãn những tấm lòng tham dục,
Họ phung phí cuộc đời trong trụy lạc;
Giờ đây mình rực lửa đứng chôn thân.
55. Sao những kẻ kia bị người lôi cẳng,
Và thả vào dòng nước Na-ra-ka?
Lòng kinh hoàng, Mà-ta-li, nói ra,
Tội lỗi gì những thế nhân tạo vậy,
Nên ngày nay trôi vào dòng sông ấy?
56. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
Nêu nghiệp nhân mang quả đã chín muồi:
– Những kẻ kia trên thế gian độc ác,
Trộm báu vật, tư thông vợ người khác,
Nên giờ đây bị thả xuống dòng sông,
Chịu khổ hình trong địa ngục muôn năm,
Không an lạc cho người gây tội lỗi,
Vì nó luôn bị nghiệp mình theo dõi.
Những ác nhân này gây tạo lỗi lầm,
Nên ngày nay bị thả xuống dòng sông.
Nói xong, Màtali làm cho cảnh địa ngục biến mất rồi tiếp tục lái xe tiến lên, chỉ cho vua xem địa ngục hành hình kẻ theo tà giáo. Theo lời vua yêu cầu, thần Màtali giải thích:
57. Ta chứng kiến bao nghiệp nhân gây quả,
Thật kinh hoàng trong địa ngục, khi trồng,
Mà-ta-li, ta sợ hãi trong lòng,
Tội lỗi gì những thế nhân phạm phải,
Nên ngày nay bị trầm luân khổ ải,
Rất đau thương, thống thiết, khó vượt qua?
58. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp vua,
Nêu tội chín muồi và nay mang trái:
Bọn ác tà kiến kia trên thế giới,
Đặt lòng tin vào vọng tưởng hư danh,
Buộc tha nhân phải tín ngưỡng theo mình.
Vì tà kiến đã gây bao tội lỗi,
Nên ngày nay phải chịu bao khổ ải,
Rất đau thương, thống thiết, khó vượt qua.
Bấy giờ trên thiên giới, chư Thiên đang tụ tập tại Sudhamma (Thiện pháp đường) chờ đợi nhà vua đến. Thiên chủ Sakka nghĩ thầm: “Màtali đã đi lâu lắm rồi” và khi xét thấy lý do, ngài bảo:
Màtali đang đi vòng quanh làm vị hướng dẫn, chỉ các cảnh giới địa ngục cho nhà vua xem và giải thích các tội lỗi đã đưa đường đến mỗi địa ngục ấy.
Rồi cho gọi một vị Thiên đồng trẻ tuổi nhanh nhẹn, ngài bảo vị này:
– Hãy đi bảo Màtali mang nhà vua đến đây ngay. Vị ấy đang tiêu phí hết cuộc đời của nhà vua đấy, không nên đi quanh các địa ngục quá lâu như vậy.
Lập tức vị Thiên đồng ra đi, truyền lệnh của Thiên chủ cho Màtali. Nghe xong Màtali đáp:
– Chúng tôi không dám chậm trễ nữa.
Rồi trong một thoáng nhanh như chớp, thần chỉ tất cả mọi cảnh giới địa ngục rộng lớn cho vua xem khắp bốn phương và ngâm kệ sau:
59. Giờ Đại vương đã chứng kiến nhiều nơi,
Của thế nhân mắc tội lỗi trên đời,
Nên đọa đày và đây Minh quân hỡi,
Nhanh lên thăm Đại đế của cõi trời.
Nói xong thần quay xe lên thiên giới. Khi ấy vua thấy trên không tòa lâu đài của một thiên nữ, tên là Bìrani, với các đỉnh tháp đầy ngọc vàng, được trang hoàng thật lộng lẫy, có hoa viên và hồ hoa sen súng cùng những cây quý bao quanh xứng đáng với cảnh đẹp ấy. Thiên nữ này ngồi trên đó tọa sàng trong căn phòng có đỉnh tháp hướng ra phía trước và được cả ngàn tiên nữ hầu hạ chung quanh, bà đang nhìn ra cửa sổ. Vua liền hỏi Màtali nữ thần ấy là ai và Màtali giải thích như sau:
60. Ngắm lâu đài kia với năm đỉnh tháp,
Đầy tràn hoa tô điểm, ngự tọa sàng,
Một nữ thần thật diễm lệ huy hoàng,
Muôn vẻ uy nghi, muôn phần kỳ lực,
Mà-ta-li, lòng ta vui náo nức,
Nói ta nghe những thiện nghiệp của nàng,
Khiến nàng nay hạnh phúc ở thiên đàng.
61. Mà-ta-li, thần quản xa, đáp lại :
Nêu thiện nghiệp chín muồi nay mang trái:
Ngài nghe chăng ở xứ Bì-ra-ni,
Một Bà-la-môn có một nô tỳ,
Tiếp một khách đúng thời, lòng niềm nở
Như mẹ đón con mình, nên từ đó,
Cao sang, trong sạch, sống hưởng lâu đài.
Nói xong, Màtali lái xe tiến lên và chỉ vua xem bảy lâu đài bằng vàng của Thiên thần Sonadanna. Vua thấy cảnh tượng huy hoàng của Thiên thần này, liền xin Màtali giải thích:
62. Kia bảy lâu đài sáng ngời chói lọi,
Một thiên nhân đang ngự trị huy hoàng,
Cùng các vợ tiên trú ngự thiên đường.
Ta hoan hỷ nhìn, Mà-ta-li hỡi,
Thiện nghiệp nào thế nhân kia vun xới,
Mà bây giờ lạc trú cảnh thiên đình?
63. Mà-ta-li, thần điều ngự, lại trình,
Tuyên thiện nghiệp chín muồi và mang quả:
– So-na-din-na trước làm vua đã,
Đem cúng dường với đại lượng quân vương,
Bảy am tu cùng tất cả đồ dùng,
Cung cấp đủ tâm thành và vật thực:
Sàng tọa, đèn, hương, cùng nhiều y phục,
Hoan hỷ, tam hòa với các chánh nhân,
Ngài giữ ngày trai giới, mỗi hai tuần:
Mồng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
Thanh tịnh bước đường, điều thân, độ lượng,
Nên bây giờ tận hưởng lạc thiên cung.
Màtali kể rõ các thiện nghiệp của vua Sonadinna xong, liền lái xe tiến tới nữa. Rồi thần lại chỉ một lâu đài bằng pha lê, cao ngất đến hai mươi lăm dặm, có hàng trăm cột trụ làm bằng thất bảo, hằng trăm đỉnh tháp, rải rác các rèm treo và chuông nhỏ. Một chiếc cờ bằng bạc và vàng đang phất phới, cạnh đó là một công viên đầy hoa lá tốt tươi, một hồ thả hoa súng xinh xinh, các nữ thần yêu kiều ca hát muôn điệu nhạc. Khi vua thấy cảnh này liền hỏi các nữ thần này đã tạo những thiện nghiệp gì, Màtali đáp:
64. Kìa cung pha lê sáng ngời, rực rỡ,
Các đỉnh cao chất ngất đến tầng mây,
Thức uống, đồ ăn la liệt đủ đầy,
Thiên nữ kỳ tài cả đoàn tuyệt sắc,
Đang trình diễn múa ca cùng tiếng hát.
Ta hân hoan, hãy nói, Màtali,
Các nữ nhân này đã tạo nghiệp gì,
Nay an trú lâu đài đầy hoan lạc?
65. Mà-ta-li, thần quản xa, liền đáp,
Tả những thiện duyên mang lại quả lành;
– Các nữ nhân này Thánh hạnh tu hành,
Tín nữ tại gia giữ ngày Bố-tát,
Rộng lượng, điều thân, tịnh tâm, tịnh giác,
Nên giờ đây hạnh phúc ở Thiên cung,
Mà Đại vương đã tận mắt ngắm trông.
Rồi thần lái xe tiến lên, chỉ một lâu đài bằng ngọc bích, sừng sững trên một nơi bằng phẳng, hùng vĩ như ngọn núi ngọc bích sáng ngời, các Thiên tử đang nô đùa ca hát khúc nhạc thiên đường. Thấy cảnh này, vua liền hỏi về các thiện nghiệp của các Thiên tử này và vị kia đáp lại:
66. Lâu đài ngọc kia tỏa đầy ánh sáng,
Cảnh nguy nga, tráng lệ, thật huy hoàng,
Nhạc du dương đang trổi khúc thiên đường,
Đàn ca trống âm vang theo vũ khúc,
Ta chưa từng nhìn cảnh nào ngoạn mục,
Âm thanh kia êm dịu chẳng hề nghe,
Lòng hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
Nghiệp lành nào những vị này tạo tác,
Nay hạnh phúc trong thiên cung hoan lạc?
67. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
Nêu thiện duyên nay đem quả chín muồi:
– Đây các vị tại gia trong đời trước,
Bố thí nhiều vườn cây và giếng nước,
Kéo nước và thành tín cúng Thánh nhân:
Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
Lòng hoan hỷ cùng chân nhân chính trực,
Cứ mỗi hai tuần giữ ngày Bố-tát:
Mùng tám, mười tư cùng với ngày rằm,
Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
Nay an trú trong lâu đài hoan lạc.
Như vậy, khi đã nêu các thiện nghiệp của các vị Thiên thần kia, Màtali liền lái xe đến một lâu đài pha lê khác, với nhiều đỉnh tháp, hoa thơm cỏ lạ và cây xinh đẹp mọc khắp nơi, vang dội muôn tiếng chim ca, bên cạnh một dòng sông trong vắt. Đó là nơi cư ngụ của một thiện nhân, có cả một đoàn tiên nữ hầu hạ quanh mình. Thấy cảnh tượng này, nhà vua lại hỏi Màtali về các nghiệp quả của vị ấy và được giải thích như sau:
68. Kìa cung pha lê chói ngời ánh sáng,
Các đỉnh cao chất ngất đến từng mây,
Thức uống đồ ăn la liệt, cả bầy,
Thiên nữ diễm kiều đủ tài múa hát;
Bao hoa lá viền đôi bờ sông mát.
Ta hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
Nam nhân này đã tạo nghiệp lành gì?
Nay thọ hưởng lâu đài đầy thiên lạc?
69. Mà-ta-li, thần lái xe, liền đáp,
Nêu nghiệp lành, nay quả tốt sinh ra:
– Một chủ nhà ở tại Kim-bi-là,
Hào phóng cúng các vườn cây, giếng nước,
Kéo nước dâng Thánh nhân lòng thành thực:
Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
Lòng hân hoan cùng các bậc chánh nhân,
Ngày Bố-tát giữ hai lần nửa tháng:
Mùng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
Điều thân, rộng lượng, theo bước Thánh hành,
Nay trú an trong lạc thú thiên đình.
Như vậy, sau khi tả nghiệp lành của Thiện nhân này xong, thần lái xe đi nữa, rồi thần chỉ cho vua một lâu đài pha lê khác: Lâu đài này lại còn nhiều cỏ cây hoa trái muôn màu bao quanh hơn các lâu đài trước nữa. Thấy vậy vua liền hỏi các thiện nghiệp của vị Thiên thần đầy diễm phúc kia và Màtali liền đáp:
70. Kìa ngọc cung đang tỏa đầy ánh sáng,
Các đỉnh cao chất ngất đến từng mây,
Thức uống đồ ăn bày la liệt, cả bầy,
Thiện nữ diễm kiều đủ tài múa hát,
Bao hoa lá viền đôi bờ sông mát:
Sà-la, xoài, tượng, vương giả cây cao,
Pi-yal, tin-duk, đào đỏ ngọt ngào,
Vườn cây trái mọi nơi sinh quả quý.
Mà-ta-li, nói đi, ta hoan hỷ,
Thiên nhân này đã tạo nghiệp lành gì,
Nay hưởng lâu đài thiên lạc tràn trề?
71. Mà-ta-li, thần lái xe, đáp lại,
Nêu thiện nghiệp chín muồi và mang trái:
– Một chủ nhà ở tại Mi-thi-là,
Hào phóng, đem cho giếng nước, vườn hoa,
Kéo nước, cúng Thánh nhân, lòng ngưỡng mộ:
Y phục, thức uống ăn và tọa cụ,
Mọi nhu cầu, hòa hợp với chánh nhân,
Người giữ ngày trai giới mỗi hai tuần,
Mồng tám, mười tư, ngày rằm trăng sáng,
Thanh tịnh bước đường, điều thân, độ lượng,
Nên giờ đây an trú lạc thiên cung.
Tả xong thiện nghiệp của vị này như vậy, thần tiếp tục lái xe đi đến một lâu đài bằng ngọc, giống lâu đài đầu tiên, và vua lại yêu cầu thần kể các hành nghiệp của vị Thiên thần đang hưởng lạc tại đây:
72. Kìa ngọc cung đang chiếu đầy ánh sáng,
Cảnh nguy nga tráng lệ thật huy hoàng,
Nhạc du dương đang trổi khúc thiên đường,
Đàn ca trống âm vang theo vũ khúc,
Ta chưa từng thấy cảnh nào ngoạn mục,
Âm thanh êm dịu quá chẳng hề nghe.
Lòng hân hoan, hãy nói, Mà-ta-li,
Các nghiệp lành những vị này tạo tác,
Nay hạnh phúc trong thiên cung hoan lạc?
73. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
Nêu thiện duyên nay mang quả chín muồi:
– Một vị tại gia ở thành Bê-na-rét,
Bố thí nhiều vườn cây cùng giếng nước,
Kéo nước và dâng cúng Thánh nhân:
Y phục, thức ăn, tọa cụ, vật cần,
Lòng hòa hợp cùng thiện nhân chánh trực,
Mỗi tháng hai lần giữ ngày Bố-tát,
Mồng tám, mười tư, cùng với ngày rằm,
Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
Nay an trú trong lâu đài an lạc.
Vừa lái thiên xa tiến lên, thần vừa chỉ một lâu đài bằng vàng, như mặt trời đang tỏa ánh sáng và theo lời thỉnh cầu của nhà vua, thần kể các thiện nghiệp của vị Thiên nhân đang an trú ở đấy:
74. Ngắm lâu đài kia sáng ngời ánh lửa,
Đỏ như mặt trời đang lúc lên cao,
Mà-ta-li, long hoan hỷ, nói mau,
Thiện nghiệp gì thế nhân này vun xới,
Nay an trú hưởng lâu đài trên thiên giới?
75. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
Nêu thiện duyên nay mang quả chín muồi:
– Một chủ nhà xưa ở thành Xá-vệ,
Giếng nước, vườn cây, rộng lòng bố thí,
Kéo nước, dâng các Thánh với tín tâm:
Thức uống ăn và y phục, tọa sàng,
Vật cần thiết, tâm hòa người chánh trực,
Mỗi tháng hai lần giữ ngày Bố- tát,
Mùng tám, mười tư, cùng với ngày rằm,
Rộng lượng, điều thân, theo bước Thánh nhân,
Nay an trú lâu đài đầy hoan lạc.
Trong khi thần Màtali tả cảnh tám lâu đài này, Sakka Thiên chủ, Đại đế của chư Thiên, tưởng rằng Màtali còn lâu lắm mới trở về, nên đã phái một Thiên tử nhanh chân khác đi đưa tin triệu hồi. Màtali nghe lệnh, thấy không thể nào trì hoãn được nữa, liền trong một thoáng nhanh như chớp, thần chỉ một lượt nhiều lâu đài và nêu cho vua thấy những thiện nghiệp của các Thiên nhân ở trong đó:
76. Nhìn những lâu đài rực sáng trên không,
Như tia chớp xuyên qua đám mây hồng.
Lòng hoan hỷ, Mà-ta-li, hãy nói,
Thiện nghiệp gì các vị này vun xới,
Nên bây giờ an hưởng cảnh thiên đường?
77. Mà-ta-li đáp lại đấng quân vương,
Nêu thiện nghiệp chín muồi và mang quả:
– Sống hướng thiện, tín thành và thức giả,
Thi hành những lời dạy của Đạo Sư,
Nhờ sống như Phật Đại Giác dạy cho,
Nay lên các thiên cung ngài đang ngắm!
Sau khi đã chỉ cho nhà vua các lâu đài trên không, thần lên đường trở về yết kiến Sakka Thiên chủ với những lời này:
78. Ngài đã thấy cảnh người lành, kẻ dữ,
Giờ ta mau bái yết đấng Thiên hoàng.
Nói xong, thần tiếp tục lái xe đi và chỉ cho nhà vua xem bảy ngọn đồi bao quanh núi Sineru (Tu-di) làm thành một vòng tròn, rồi để giải thích cách vua hỏi Màtali khi thấy cảnh này, bậc Đạo Sư nói:
79. Khi Đại vương du hành lên thiên giới,
Ngự thiện xa ngàn thiên mã kéo đi
Thấy những đỉnh non cao ngất đằng kia,
Trên biển cả Si-dà, ngài liền hỏi:
– Núi đồi này là gì xin hãy nói,
Nghe vua Nimi hỏi, thần Màtali đáp:
80. Núi hùng vĩ Sudassara, Karavìka,
Ìsadhara, Yugandhaka,
Nemindhara, Yinatara Assakanna,
Những đồi này ở Sìdantara,
Theo lớp hàng đồi núi đứng gần xa,
Cao sừng sững giữa không gian chất ngất,
Mà Đại vương đang ngắm nhìn tận mắt.
Rồi thần chỉ thiên giới của Tứ đại Thiên vương và tiếp tục đi cho đến lúc thấy các tượng thần Indra đứng sừng sững quanh Đại Thiên môn Cittakùta ở cõi trời Ba mươi ba.
Thấy cảnh tượng này, vua liền hỏi và Màtali đáp lại:
81. Cảnh đẹp tinh vi, tráng lệ, huy hoàng,
Tượng thần Indra sừng sững thiên môn,
Như thần hổ đứng canh, ta nhìn kỹ,
Mà-ta-li, lòng ta đầy hoan hỷ,
Nói cho ta tên cảnh đẹp tuyệt vời.
82. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
Nêu thiện nghiệp chín muồi nay mang trái:
– Ci-ta-kù-ta, nơi ngài chiêm bái,
Cổng đi vào cung Đại đế Thiên hoàng,
Đây Đại môn quan của ngọn Mỹ Sơn,
Diễm lệ, huy hoàng, bao quanh sừng sững,
Với tượng Indra như bầy hổ đứng.
Mời Hiền vương vào chốn thanh tịnh này.
Nói xong Màtali dẫn vua vào trong, và việc ấy được tả lại như sau:
83.Khi Đại vương ngự giá chiếc thiên xa,
Được cả ngàn tuấn mã kéo đi qua,
Nhà vua ngắm nơi chư Thiên hội họp.
Trong khi Ngài đi ngang qua, ngắm nơi chư Thiên hội họp tại Thiện pháp đường Sudhammà, Ngài liền hỏi và Màtali đáp lại:
84. Như mùa thu, trời cả một màu xanh,
Tòa lâu đài ngọc bích hiện nguyên hình,
Lòng hoan hỷ, Mà-ta-li, hãy nói,
Tên lâu đài mà ta đang chiêm bái?
85. Mà-ta-li, thần điều ngự, đáp lời,
Nêu thiện duyên đem quả tốt chín muồi:
– Đây Thiện pháp đường chư Thiên tụ tập,
Trụ đứng nguy nga, công trình mỹ thuật,
Tám bề xây bằng ngọc bích, bảo trân,
Tam thập tam thiên với đấng Ngọc hoàng,
Đại đế In-dra cầu mong lạc phước,
Cho trời, người; mời Đại vương hãy bước,
Chốn diễm kiều, nơi trú ngụ chư Thiên.
Các vị Thiên lúc ấy đang ngồi đợi vua đến. Khi nghe tin, họ bước ra đón ngài với hoa hương cõi trời thơm tỏa ngào ngạt đến tận cổng Cittakùta ấy và mời ngài vào Thiện pháp đường. Vua xuống xe vào sảnh đường, chư Thiên mời ngài ngồi và Sakka Thiên chủ cũng ban tặng ngài đủ mọi hoan lạc của thiên giới.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
86. Chư Thiên ngắm đức vua vừa mới đến,
Đồng chào mừng vị quý khách Minh quân:
– Cung nghênh ngài! Thiên chủ rất hân hoan,
Được diện kiến! Bên Sak-ka Thiên chủ,
Chúng Thiên đồng kính mời Minh quân ngự.
87. Thiên chủ mời Đại đế Vi-đề-ha,
Vị Minh quân ngự trị Mi-thi-là,
Và-sa-va liền tặng ngài tất cả,
Thiên lạc và thỉnh Minh quân an tọa.
88. – Giữa các quân vương cai trị cõi đời,
Xin cung nghênh chúa tể đến cung trời,
An trú với chư Thiên, này Chúa tể,
Ngài sẽ được mọi ước nguyền như ý,
Hưởng trường xuân nơi Tam thập tam thiên.
Như vậy Thiên chủ Sakka ban ngài các thiên lạc, nhưng vua từ chối khéo và đáp lại:
89.- Như khi ta được ngự giá xe tiên,
Hay được tặng phỉ nguyền bao phúc lạc,
Chính là hưởng đặc ân từ kẻ khác.
90. Ta không màng những phúc lạc đặc ân,
Nhận từ tay do kẻ khác phát phân,
Các thiện nghiệp đều của ta duy nhất,
Trên các nghiệp riêng, ta luôn vững chắc.
91. Ta sẽ đi làm thiện nghiệp cho người,
Bố thí cúng dường ở khắp mọi nơi,
Ta sẽ bước theo con đường giới đức,
Tập phòng hộ và tự thân điều phục,
Người thực hành như vậy sẽ hân hoan,
Không còn lo phải gặp lúc ăn năn.
Như vậy bậc Đại sĩ thuyết Pháp cho chư Thiên với âm thanh ngọt như mật. Ngài ở lại đó bảy ngày theo ước tính của loài người, đem đến niềm hân hoan cho Thiên chúng. Rồi đứng giữa các vị Thiên thần, ngài nêu rõ công đức của Màtali:
92. Mà-ta-li, thần quản xa thiên giới,
Là vị thần đặc biệt đã ban ân,
Vị ấy chỉ cho ta thấy rõ ràng
Nơi kẻ dữ, người lành đang cư trú.
Rồi vua từ giã Thiên chủ Sakka, nói rằng ngài muốn trở về hạ giới. Sau đó Thiên chủ bảo:
– Này hiền hữu Màtali, hãy rước Đại vương Nimi về thành Mithilà ngay lập tức.
Xa giá đã sẵn sàng và vua đáp lại những lời chúc tụng thân hữu của chư Thiên rồi tạ từ lên xe. Màtali lái xe về hướng đông, đến thành Mithilà. Dân chúng thấy thiên xa, hoan hỷ biết vua đã trở về. Một đám người vây quanh vua và hỏi ngài cảnh Thiên giới. Ngài tả cho họ nghe cảnh an lạc của chư Thiên và Thiên chủ Sakka, rồi khuyến dụ họ làm lành, bố thí để được tái sinh lên cõi trời.
Sau đó khi người thợ hớt tóc thấy sợi tóc bạc đầu tiên và bảo cho ngài hay, ngài liền bảo gã cất sợi tóc bạc ấy, rồi ban cho gã một ngôi làng. Ngài muốn rời thế tục nên phong vương cho con ngài. Khi được hỏi tại sao ngài muốn xuất thế, ngài đọc câu kệ:
Kìa tóc bạc trên đầu hiện ra …
Và cũng như các vua trước, ngài xuất gia, vào sống trong vườn xoài, tu tập Tứ Vô lượng tâm, rồi được sinh lên cõi Phạm thiên .
Việc xuất gia của ngài được các bậc Đạo Sư tả trong vần kệ cuối cùng:
93. Ni-mi, Chúa tể Mi-thi-là,
Khi đã làm Đạo Sự xuất gia,
Ngài bước vào con đường Thánh hạnh.
Bản thân chế ngự với Thiền na.
Và con ngài, vua Kalàra-Janaka, cũng xuất gia, chấm dứt cả triều đại của ngài.
*
Khi bậc Đạo Sư thuyết giảng xong, Ngài nói:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai xuất thế, mà Như Lai đã xuất thế trong đời trước.
Rồi ngài nhận diện Tiền thân:
– Lúc bấy giờ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), Màtali là Ànanda (A-nan), tám mươi bốn vị vua là đệ tử đức Phật và vua Nimi chính là Ta vậy.
-ooOoo-
542. Chuyện tế sư Khandahàla (Tiền thân Khandahàla)
Ngày xưa có một vị hôn quân…,
Trong lúc trú tại núi Gijjhakùta (Linh Thứu), bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này liên quan đến Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) .
Nội dung câu chuyện của Ngài nói đến tội phá hòa hợp Tăng (gây chia rẽ trong Giáo hội) đã được Tăng chúng biết rõ qua việc nghiên cứu tư cách đạo đức của Như Lai từ khi Ngài xuất gia tu hành cho đến việc mưu sát vua Bimbisàra. Ngay sau khi ông đã lập mưu sát hại vua này, ông liền đi tìm vua Ajàtasattu (A-xà-thế) và nói:
– Tâu Đại vương, ý nguyện của ngài đã thành, nhưng ý nguyện của ta chưa thành.
Vua trả lời:
– Ngài muốn gì?
– Ta muốn cho người giết đấng Thập Lực và ta làm đức Phật.
– Vậy thì ta phải làm sao đây?
– Ta phải tập họp một số thiện xạ tại đây.
Vua chấp thuận, truyền triệu tập năm trăm thiện xạ có thể bắn cung nhanh như chớp, trong số đó chỉ lựa ra ba mươi mốt người, đưa họ đến hầu cận Đề-bà-đạt-đa và bảo họ phải tuân lệnh ông.
Ông gọi người trưởng đoàn ra dặn:
– Này Hiền hữu, Sa-môn Gotama đang sống trên núi Linh Thứu, hằng ngày Ngài thường kinh hành trong tịnh thất của Ngài vào một thời điểm nào đó; vậy bạn hãy đến đó bắn Ngài với tên tẩm thuốc độc, khi đã giết hại Ngài xong, hãy trở về đường này.
Rồi ông lại cho hai người thiện xạ đi theo con đường kia, bảo họ:
– Các vị sẽ gặp một người trên đường đi, vậy hãy giết nó và hãy trở về bằng đường này.
Ông lại cho bốn người thiện xạ đi đường kia với lời dặn dò như vậy. Sau đó ông lại dặn thêm tám người, rồi mười sáu người thiện xạ như trên. Tại sao ông làm như vậy? Chính là để che giấu lòng thâm độc của mình.
Thế rồi người trưởng đoàn thiện xạ buộc kiếm bên sườn trái, bao đựng tên bên lưng, cầm lấy chiếc cung làm bằng sừng dê và đi đến chỗ đức Như Lai trú ngụ; nhưng sau khi gã giương cung lên và nhắm mũi tên để bắn Ngài, gã lại không thể thả dây cung được. Toàn thân gã cứng đờ, như thể bị đè bẹp. Gã cứ đứng đó kinh hoàng với nỗi sợ chết.
Khi bậc Đạo Sư thấy gã, Ngài liền nói với giọng dịu dàng:
– Đừng sợ, hãy đến đây.
Gã lập tức ném vũ khí và vừa nói vừa sụp người xuống đảnh lễ chân Thế Tôn:
– Bạch đức Thế Tôn, tội lỗi đã trấn áp con như một đứa trẻ, một tên khùng hoặc một tên tội nhân. Trước đây con không biết công hạnh của Ngài, con đã đến theo lệnh của lão già điên rồ mù quáng Đề-bà-đạt-đa để lấy mạng của Ngài, con xin Ngài tha mạng cho.
Gã lại cầu xin tha tội và ngồi qua một bên. Lúc ấy bậc Đạo Sư tuyên thuyết Các Sự thật cho gã nghe khiến gã chứng quả Dự Lưu. Ngài bảo gã trở về bằng con đường khác với con đường mà Đề-bà-đạt-đa đã dặn gã. Còn chính Ngài bước ra khỏi lối đi có mái che của Ngài và ngồi xuống một gốc cây.
Trong khi người bắn cung thứ nhất chưa trở về, hai người kia đi trên con đường dự đinh gặp gã kia và băn khoăn không hiểu sao gã lại chậm trễ như vậy, cuối cùng họ thấy đức Phật. Khi đến đảnh lễ đức Phật xong, họ ngồi xuống bên Ngài. Ngài lại tuyên thuyết Các Sự thật cho họ nghe khiến cả hai gã cùng chứng quả Dự Lưu. Rồi Ngài bảo họ trở về bằng con đường khác với con đường mà Đề-bà-đạt-đa đã ra lệnh. Cứ như thế những tay thiện xạ kia lần lượt đi đến, ngồi xuống nghe Ngài thuyết Pháp, được an trú vào quả Dự Lưu và được Ngài bảo đi về bằng một con đường khác.
Rồi khi người thiện xạ đầu tiên trở về gặp Đề-bà-đạt-đa, gã nói:
– Bạch Sư trưởng, tôi không thể nào giết bậc Toàn Giác được, Ngài là đấng Toàn Năng, đức Thế Tôn đầy đủ mọi uy lực siêu phàm.
Như vậy cả đám thiện xạ nhận ra là họ đã thoát chết nhờ bậc Toàn Giác nên họ xuất gia sống đời tu hành theo Ngài và trở thành các bậc A-la-hán. Sự kiện này được cả hội chúng Tỷ -kheo biết và một ngày kia họ bắt đầu nói đến chuyện này trong Chánh pháp đường:
– Này các Tỷ-kheo, các vị có nghe chuyện Đề-bà-đạt-đa, vì thù ghét một người là đức Thế Tôn, mà đã quyết tâm làm thiệt mạng nhiều người và rồi các người này lại được chính đức Thế Tôn cứu mạng như thế nào không?
Lúc ấy bậc Đạo Sư bước vào hỏi:
– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi nói chuyện gì đấy?
Khi chúng Tỷ-kheo đáp lại, Ngài bảo:
– Đây không phải là lần đầu tiên, mà trước đây kẻ ấy cũng đã quyết hại nhiều mạng người chỉ vì thù ghét Ta.
Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa thành Bà-la-nại có tên là Pupphavati. Thái tử của vua Vasavatti lên ngôi trị vì tại đó tên là Ekaràja và con của vua là Candakumàra làm phó vương. Một Bà-la-môn tên gọi Khandahàla là vị tế sư của vương tộc. Ông làm cố vấn cho vua trong mọi vấn đề thế sự cũng như thánh sự và vua rất tôn trọng tài trí của ông nên để ông làm phán quan. Nhưng ông lại thích hối lộ, thường nhận của đút lót và tước đoạt tài sản của nhiều người trao cho người khác làm chủ.
Một ngày kia có người thua kiện, bước ra khỏi tòa án lớn tiếng than phiền, khi thấy Candakumarà đi ngang qua để bái yết vua cha, gã liền quỳ xuống. Vương tử hỏi sự tình, gã đáp :
– Tâu Chúa công, Khandahàla bóc lột các kẻ thưa kiện khi ông ta xử án, thần đã thua kiện mặc dù thần đã hối lộ ông ta rồi.
Vương tử bảo gã đừng sợ, rồi khi dẫn gã đến tòa án, chàng trả lại quyền sở hữu về các tài sản bị tranh tụng cho gã. Dân chúng reo hò hoan nghênh vang dội. Khi vua nghe được, hỏi lý do, họ đáp:
– Vương tử đã xử án phân minh một vụ kiện mà ông Khandahàla đã xử sai, vì thế có tiếng reo hò như vậy.
Khi vương tử đến chúc tụng, vua bảo:
– Này vương nhi, dân chúng bảo con vừa xử án phân minh?
– Tâu phụ vương, chính phải .
Vua liền trao tòa án cho vương tử và dặn vương tử từ nay được quyền xử án. Lợi lộc của Khadahàla giảm sút dần, từ đó ông sinh lòng thù ghét vương tử và rình rập cố tìm lỗi lầm của chàng.
Lúc bấy giờ vua rất ít tu tập nội tâm. Một buổi sáng kia, khi gần thức dậy, vua mơ thấy cõi trời Ba mươi ba với mái đình trang hoàng lộng lẫy, đường xá lót vàng cao cả ngàn dặm, được điểm tô bằng cung Vejayanta và nhiều cung khác cùng với tất cả vẻ huy hoàng của Lạc Viên Nandana và nhiều cánh rừng khác, với hồ Nanda và nhiều hồ khác nữa, khắp nơi đông đảo chư Thiên. Vua muốn lên cõi trời và nghĩ thầm: “Khi Sư trưởng Khandahàla đến, ta sẽ hỏi ngài con đường lên thiên giới, và sẽ lên đó nhờ con đường ngài chỉ dẫn”.
Sáng sớm hôm ấy Khandahàla vào cung và vấn an vua xem ngài có được hưởng một đêm đầy mộng đẹp chăng? Vua liền truyền đem cẩm đôn cho ông ngồi, rồi hỏi ngay ông vấn đề ấy.
*
Bậc Đạo Sư kể lại như sau:
1. Ngày xưa có một vị hôn quân,
Ở xứ Pup-pha, gặp lúc cần,
Liền hỏi tế sư hèn hạ ấy,
Nghiệp tà, danh chánh Bà-la-môn:
2.- Ngài là bậc trí, mọi người đồn,
Thánh điển am tường đủ mọi môn,
Hãy nói công năng gì dẫn lối,
Đưa đường hành giả đến thiên cung?
Đây là câu hỏi mà trừ đức Phật Đại Giác hoặc các đệ tử của Ngài ra, ta phải hỏi một vị Bồ-tát, nhưng ở đây, vua đã đem ra hỏi Khandahàla, chẳng khác nào một người lạc đường bảy ngày lại đi hỏi đường một kẻ đi lạc đã nửa tháng. Thế là ông tự nhủ: “Đã đến lúc ta trừ khử được kẻ thù của ta rồi, ta sẽ giết Candakumàra, thế là toại nguyện”.
Ông liền nói với vua:
3. Hãy dâng nhiều lễ vật đầy tràn,
Giết những ai không đáng chết oan,
Nhờ vậy đạt công đức vĩ đại,
Người ta sẽ hưởng lạc thiên đàng.
Vua lại hỏi:
4. Những gì là lễ vật đầy tràn,
Những kẻ nào không đáng chết oan?
Ta sẽ giết người, dâng tế lễ,
Nếu ngài nói ý nghĩa cho tường.
Sau đó ông giải thích ý nghĩa này:
5. Đem vợ con làm vật tế thần,
Phú thương quý tộc cũng tiêu vong.
Ngựa trâu tuyệt hảo, nòi cao quí,
Bốn loại tội đồ phải cúng dâng.
Như vậy khi vua hỏi đường lên Thiên giới, ông lại chỉ đường xuống địa ngục. Ông tự nhủ: “Nếu ta chỉ chọn một mình Candakumàra, mọi người sẽ nghĩ rằng ta làm thế vì thù ghét nó”. Cho nên ông đặt chàng vào chung với một số người khác. Khi vấn đề này được đem ra bàn tán, các vương phi nghe tin lòng đầy kinh hãi, đồng cất tiếng khóc than.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích việc này như sau:
6. Cung phi mỹ nữ biết tin này:
“Vương tử, vương phi phải đọa đày”,
Khóc thét bỗng nhiên vì sợ hãi,
Vang rền mọi phía tận trời mây.
Cả vương cung náo loạn như thể rừng cây Sàla bị gió bão rung chuyển vào giờ tận thế, khiến lão Bà-la môn phải hỏi vua xem ngài có thể thực hiện được việc tế lễ ấy không.
– Sao ngài lại hỏi thế này Sư trưởng? Nếu ta dâng tế lễ, ta sẽ được lên thiên đàng mà.
– Tâu đại vương, những kẻ nào yếu hèn, không quyết chí thì không thể nào tế lễ kiểu này được. Xin Đại vương triệu chúng về đây cả rồi bần đạo sẽ dâng lễ vật ở huyệt tế thần.
Thế rồi ông đem đủ lực lượng cần thiết ra khỏi thành, bảo họ đào huyệt tế lễ với đáy bằng, có hàng rào bao quanh, vì các Bà-la-môn từ thời xưa đã ra lệnh phải làm hàng rào quanh đàn tế kẻo sợ các vị chân tu có thể đến ngăn cản buổi lễ. Vua cũng ban lệnh cho quân thần:
– Ta sẽ được lên thiên giới bằng cách đem hết vợ con ra cúng tế, vậy các khanh hãy đi báo tin cho chúng rõ rồi mang chúng về đây.
Lập tức vua ra lệnh đem các vương tử đến:
7. Báo Can-da, kế Su-ri-ya,
Lần lượt Bhad-da, biết ý ta,
Rồi đến Sù-ra, Và-ma nữa,
Chúng đều phải chết: ý vua cha.
Trước hết bọn họ đi tìm Candakumàra và nói:
– Tâu điện hạ, phụ vương muốn đem tế ngài để được lên thiên giới, nên ra lệnh cho chúng thần đi triệu ngài về.
– Phụ vương ra lệnh bắt ta theo lời khuyến dụ của ai thế?
– Tâu điện hạ, theo lệnh của Khandahàla.
– Ngài muốn bắt một mình ta hay còn ai khác nữa?
– Tâu điện hạ, còn nhiều người khác vì ngài muốn dâng lễ tế đủ bốn loại lễ vật.
Vương tử nghĩ thầm: “Lão ấy không thù oán với những người kia, nhưng lão định cho họ chết chỉ vì thù oán ta đã ngăn chặn lão phạm tội ăn hối lộ qua việc xử án bất công của lão, vậy ta có phận sự phải đi yết kiến vua cha xin ngài thả các người kia ra mới được”. Rồi chàng bảo họ:
– Các ngươi cứ thi hành lệnh phụ vương.
Họ liền đem chàng đến sân chầu ngồi một mình tại đó, xong lại đem các người kia đến để gần chàng rồi tâu với vua. Sau đó vua ra lệnh đem các công chúa đặt bên các người kia:
8. Up-pa-se-ni, Ko-li-ta,
Lần lượt Mu-di-ta, Nan-da,
Bảo các công nương đều phải chết,
Thật là kiên định, ý vua cha!
Vì thế họ liền đi đem các công chúa đang kêu gào đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt các vương phi:
9. Trước tiên vương hậu Vi-ja- yà,
Kế tiếp Ke-si-ni, Nan-dà,
Với mọi sắc hương đầy diễm lệ,
Chúng đều phải chết: ý nguyện ta.
Họ liền đem các vương phi đang gào khóc đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt bốn phú thương của hoàng gia:
10. Pun-na-muk-kha, Bhad-di-ya,
Lần lượt Sin-ga-la, Vad-dha,
Bảo các phú thương nghe thượng lệnh:
Chúng đều phải chết: ý nguyện ta!
Đám thị vệ tuân lệnh ra đi. Khi các vương tử và vương phi bị bắt, dân chúng không nói gì, nhưng các phú thương có rất đông đảo quyến thuộc, nên cả kinh thành náo động khi họ bị bắt và dân chúng la ó phản kháng việc đem họ ra tế lễ, nên họ cùng quyến thuộc kéo đến yết kiến vua . Lúc ấy các phú thương được đám quyến thuộc vây quanh xin nhà vua tha mạng.
*
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau:
11. Các phú thương kêu khóc não nùng,
Được vây quanh bởi các thân nhân :
Đầu này xin cạo làm nô lệ,
Nhưng hãy tha cho mạng chúng thần!
*
Nhưng dù họ van xin đến mức nào đi nữa, họ cũng không được vua thương xót. Các thị vệ của vua cuối cùng bắt đám quyến thuộc lui ra để kéo các phú thương đến cạnh các vương tử. Sau đó vua ra lệnh đem voi ngựa và trâu dê đến:
12. Đem cả đàn vương tượng đến đây,
Sức voi vô địch, quý cao thay,
Ngựa, lừa chọn giống nòi ưu thắng,
Tất cả cùng dâng tế lễ này.
13. Hãy chọn ngưu vương loại đứng đầu,
Chúng là tặng vật quý dường bao,
Các thầy tế tự sắp hành lễ,
Sẽ có vật dâng cúng tối cao.
14. Hãy chuẩn bị cho tế lễ này,
Sẵn sàng ngay trước lễ ngày mai;
Bảo vương nhi đãi đằng như ý,
Thọ hưởng cuộc đời buổi tối nay.
Lúc bấy giờ thái thượng hoàng và hoàng thái hậu vẫn còn sống, nên dân chúng kéo đến tâu cho hai vị biết việc tế lễ dự định của vua. Hai vị xiết bao kinh hoàng vội đến khóc lóc với vua:
– Vương nhi hỡi, có thật con định làm một cuộc tế lễ như vậy chăng?
*
Bậc Đạo Sư giải thích như sau:
15. Mẫu hậu vội rời khỏi nội cung:
Việc kỳ quái vậy nghĩa gì chăng?
Bốn vương tôn thảy đều đem giết,
Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn?
Vua đáp lại:.
16. Khi mất Can-da, mất hết rồi,
Nhưng con chịu mất chúng mà thôi,
Vì nhờ tế lễ này cao trọng,
Con sẽ được an trú cõi trời.
Mẫu hậu bảo:
17. Đem cúng tế vương tử, hỡi con,
Chẳng bao giờ hưởng lạc thiên đường,
Đừng nghe lời dối dang như vậy,
Đây chính đường vào địa ngục môn.
18. Con nên chọn đúng đạo minh quân,
Đem bố thí tất cả bạc vàng,
Đừng giết chúng sinh trên hạ giới,
Đây đường chắc chắn đến thiên đàng.
Vua đáp lại:
19. Con phải vâng lời vị tế sư,
Than ôi, đành phải giết con thơ,
Chia lìa chúng thật đầy đau đớn,
Song được cõi trời lợi lạc to!
Thế là hoàng thái hậu đành bỏ đi về, không thuyết phục được vua. Lúc ấy thái thượng hoàng hay tin vội đến phản đối vua.
*
Bậc Đạo Sư tả rõ mọi việc xảy ra như sau:
20. Đến lượt Va-sa-va phụ vương:
– Hung tin làm hoảng hốt tâm can!
Bốn vương tôn thảy đều đem giết,
Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn?
Cuộc đối thoại lại diễn ra như trên và cuối cùng vua cha già không lay chuyển nổi con, đành bỏ đi với lời từ biệt:
21. Nên đem cho hết khả năng mình,
Đừng cố ý tàn hại hữu tình,
Để các vương tôn làm bảo vệ,
Hộ phòng đất nước khỏi điêu linh.
*
Lúc ấy Candakumàra nghĩ thầm: “Thảm họa xảy đến cho nhiều người cũng chỉ vì ta, vậy ta hãy van xin phụ vương cho họ khỏi tội chết mới được”. Vì thế chàng tâu với vua cha:
22. Xin làm nô lệ của Khan-da,
Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,
Con sẽ canh bầy voi, lũ ngựa,
Mang xiềng làm việc, thỏa lòng sư.
23. Xin làm nô lệ của Khan-da,
Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,
Con sẽ quét sân, chuồng của lão,
Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.
24. Hoặc bắt làm nô lệ tặng ai,
Chúng con tùy thánh ý an bài,
Hoặc đày tất cả ra ngoài nước,
Cầu thực tha phương ở xứ người.
Vua nghe chàng than khóc lòng đau đớn vô cùng, nước mắt chứa chan, nên vua ra lệnh tha hết vợ con. Vua bảo:
– Không ai giết được các con ta, ta không cần thiên giới nữa.
25. Những lời này tội nghiệp xin tha,
Làm trái tim ta tan nát ra,
Thả các vương nhi, cho chúng thoát,
Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!
Khi nghe vua nói vậy, đám thị vệ liền thả hết tội nhân ra, khởi đầu là các vương tử và sau cùng là bầy chim chóc. Lão Khandahàla đang bận rộn chuẩn bị việc đào huyệt tế lễ, có người đến mách lão:
– Này lão Khandàhàla hung dữ kia, đức vua đã thả hết tất cả các vương tử rồi, vậy lão hãy đi giết hết lũ con lão mà lấy máu đem ra tế thần.
– Sao nhà vua làm gì vậy kìa?
Lão kêu lên và vội chạy đến tâu vua:
26. Ta đã bảo ngài tế lễ này,
Thật là vất vả khó khăn thay,
Sao ngài can thiệp đòi đình chỉ,
Khi khởi đầu đang tốt đẹp vầy?
27. Những kẻ nào dâng lễ sát sinh,
Đi đường chắc chắn đến thiên đình,
Hoặc người ủng hộ đầy nồng nhiệt,
Khi thấy việc kia được thực hành.
Vua mù quáng, nghe lời của lão bà-la-môn đầy sân hận kia và tâm trí vua đã bị ám ảnh bởi vấn đề đạo giáo liền ra lệnh bắt vợ con lại. Lúc ấy Candakumàra đem hết lẽ phải trái tâu với vua cha:
28. Sao lúc sinh ra lũ chúng con,
Hão huyền chúc tụng Bà-la-môn,
Khi phần con trẻ là đành chết,
Vô tội nạn nhân của oán hờn?
29. Sao cha tha mạng thuở thơ ngây,
Nhỏ dại biết đâu bất hạnh này?
Con trẻ hôm nay đành phải chết,
Giờ đang vui hưởng tuổi xuân đầy?
30. Nghĩ lúc chúng con mặc giáp bào,
Trên voi ngựa, chiến trận xông vào,
Nay làm lễ vật dâng đàn tế,
Chẳng lẽ việc này hợp lý sao?
31. Ở trong chiến địa hoặc rừng hoang,
Chống lại loạn thần, lũ chúng con,
Phục vụ thường xuyên, nay bảo giết,
Mà không lý lẽ hoặc nguyên nhân.
32. Nhìn chim xây tổ ấm trên cây,
Ca hót líu lo suốt cả ngày,
Yêu dấu chim non chăm sóc kỹ,
Còn cha đem giết lũ con vầy?
33.Cha đừng tưởng lão Bà-la-môn,
Phản bạn tha cha lúc vắng con,
Đến lượt cha theo con kế tiếp,
Chúng con không chỉ chết cô đơn!
34. Vua thường ban đạo sĩ thôn làng,
Thành thị tối ưu chính đặc ân,
Trên mọi gia đình đều hưởng lợi,
Tạo nên tài sản thật cao sang.
35. Chính bọn này đây, tâu phụ thân,
Sẵn sàng phản bội các ân nhân,
Bà-la-môn tộc, cha nên nhớ,
Là giống bất trung, lũ bội ân.
Vua nghe lời con oán trách, liền kêu to:
36. Những lời này tội nghiệp xin tha,
Làm trái tim ta tan nát ra,
Thả các vương nhi, cho chúng thoát,
Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!
Khandahàla liền vội chạy đến và cũng phản đối vua như trước, khiến vương tử lại phải lý luận với vua cha lần nữa:
37. Nếu kẻ đem con trẻ tế đàn,
Đến khi chết, thảy được vinh quang,
Bà-la-môn hãy dâng con trước,
Vua chúa noi gương kẻ dẫn đường.
38. Nếu kẻ đem con trẻ tế thần,
Thẳng lên thiên giới lúc lìa trần,
Tế sư sao chẳng hy sinh trước,
Và cả toàn gia tộc lão luôn?
39. Đúng hơn, kẻ cúng tế như vầy,
Sẽ thẳng đường vào địa ngục ngay,
Những kẻ dám đồng tình ủng hộ,
Hành vi ấy, cũng đọa sau này.
Vương tử nói xong, thấy rằng không thể thuyết phục nổi cha, liền quay qua đám dân chúng đang vây quanh vua và bảo họ:
40. Làm sao các bậc mẹ cha này,
Đứng lặng yên nhìn, chẳng có ai,
Dù quý yêu con mình đến thế,
Cả ngăn vua giết các con ngài.
41. Ta ao ước vương phụ vạn an,
Ta mong tâm các bạn hân hoan,
Nhưng không tìm được người nào để
Phản đối nên lời trước phụ vương?
Nhưng vẫn không ai thốt một lời nào. Vương tử liền bảo các vương phi đến van xin vua tỏ lòng thương xót con :
42. Này các vương phi hãy nguyện cầu,
Van xin Sư trưởng, phụ vương mau,
Để tha vương tử này vô tội,
Khéo trổ tài chinh chiến biết bao.
43. Hãy xin sư trưởng với Minh quân,
Tha mạng vương nhi chẳng lỗi lầm,
Danh tánh đã vang lừng thế giới,
Là niềm vinh dự của non sông.
Bọn họ liền đến van xin vua tỏ lòng thương xót con nhưng vua chẳng chút quan tâm, lúc ấy vương tử quá tuyệt vọng nên bắt đầu than khóc:
44. Nếu không sinh trưởng chốn triều đường,
Ở dưới mái tranh kẻ khốn cùng,
Hoặc thợ giầy hay người quét rác,
Thì ta sẽ sống thật an toàn,
Đến tròn tuổi thọ, không vong mạng,
Làm nạn nhân vua chúa bất thường!
Rồi chàng nói to:
45. Đi mau tất cả các vương phi,
Đến trước Khan-da, hãy lạy quỳ,
Bảo các nàng không làm hại lão,
Các nàng chẳng có tội tình gì!
*
Và đây là lời của bậc Đạo Sư:
46. Se-la khóc, thấy các anh nàng,
Bị kết tội oan bởi phụ vương:
– Người bảo đây là đàn tế lễ,
Vì cha ta muốn đến thiên đường.
Nhưng vua cũng không quan tâm đến nàng. Đến lượt Vàsula, con của vương tử, thấy cha quá sầu thảm liền nói :
– Con sẽ cầu xin thái thượng hoàng tha mạng cho cha.
Cậu bé quỳ xuống chân vua than khóc:
*
Bậc Đạo Sư tả sự việc như sau :
47. Chập chững Va-su-la bước chân,
Trên đường đi đến chiếc ngai vàng,
Xin tha mạng của cha con trẻ,
Đừng để chúng con mất phụ thân.
Vua nghe cậu bé than khóc, lòng đau như cắt, liền ôm cháu vào lòng, ràn rụa nước mắt và bảo:
– Vương tôn hãy an tâm, ta sẽ trả phụ thân lại cho cháu đó.
Rồi vua ra lệnh:
48. Này cha con đó, Và-su-la,
Lời của trẻ thơ cảm hóa ta,
Tha các vương nhi, cho chúng thoát,
Thôi đừng tế lễ nữa vì cha!
Một lần nữa lão Khandahàla vội đến phản đối vua và vị vua mù quáng lại nhượng bộ lão, ra lệnh bắt các vương tử như cũ.
Lúc ấy Khandahàla tự nhủ: “Nhà vua này lòng quá mềm yếu, khi thì đòi bắt các con, khi thì lại thả ra hết, bây giờ lại nghe theo lời con trẻ đòi thả chúng ra, thôi ta phải dẫn vua đến huyệt tế thần mới được”.
Lão liền ngâm kệ thúc giục vua:
49. Đàn tế lễ nay đã sẵn sàng,
Kho tàng lễ vật tuyệt cao sang,
Đại vương, mau hãy đi dâng lễ,
Rồi hưởng thiên cung cực lạc tràn.
Khi họ đem Bồ Tát đi đến huyệt tế thần, các cung phi theo sau thành một đoàn dài.
*
Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:
50. Bảy trăm cung nữ của Can-da,
Rực rỡ yêu kiều giữa tuổi hoa,
Tóc xõa tơi bời, mắt đẫm lệ,
Theo anh hùng tận số đi xa.
51. Nhiều phu nhân nhập bọn tùy tùng
Trông dáng như tiên nữ giáng trần,
Với tóc tơi bời, mắt đẫm lệ,
Đi theo nối gót vị anh hùng.
Thế rồi bọn họ đồng cất tiếng khóc than:
52. Lô hội, hoa tai với giáng hương,
Lụa Kà-si khoác tuyệt cao sang,
Nhìn Can-da với S u-ri ấy,
Làm nạn nhân đưa đến tế đàn.
53. Lòng mẹ dường như bị cắt dao,
Lòng dân tràn ngập nỗi u sầu,
Nhìn Can-da với Su-ri ấy,
Làm nạn nhân đày đọa khổ đau.
54. Được tẩm đầy huơng các loại hoa,
Lụa Kà-si khoác trắng như ngà,
Nhìn Can-da với Su-ri ấy,
Làm nạn nhân theo lệnh của cha.
55. Xưa ngự trên mình các thớt voi,
Oai phong lẫm liệt trước muôn người,
Nhìn Can-da-với Su-ri ấy,
Đang bước lê chân cõi chết rồi.
56. Xưa ngự xe vua, cởi ngựa, la,
Điểm trang vàng ngọc, với cài hoa,
Nhìn Can-da-với Su-ri ấy,
Lê chân chờ chết buổi chiều tà.
*
Trong lúc các vương phi đang khóc như vậy thì đám thị vệ đem Bồ-tát ra khỏi kinh thành. Dân chúng cả kinh thành đều đi theo ngài trong cảnh đại hỗn loạn. Nhưng vì đám người quá đông đảo, cổng thành không đủ rộng cho họ đi ra, nên lão Bà-la-môn sợ chuyện bất trắc có thể xảy ra, liền ra lệnh đóng cửa thành lại. Vì thế đám đông không thể đi ra được, nhưng có một khu vuờn hoa gần cổng phía nội thành, họ tụ tập tại đó lớn tiếng khóc than số phận thảm thương của vương tử, khiến một bầy chim nghe tiếng liền bay đến tụ tập trên trời rất đông. Dân chúng cùng cất tiếng kêu gào với đàn chim:
57. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?
Hãy bay đi đến phía đông môn,
Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,
Cả bốn vương nhi bởi hận sân.
58. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?
Hãy bay đi đến phía đông môn,
Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,
Cả bốn công nương bởi hận sân.
Cứ thế đám dân chúng than khóc mãi trong hoa viên. Rồi họ đi đến cung của Bồ-tát, vừa trang nghiêm đi diễu quanh nhiều vòng vừa cất tiếng khóc than trong khi họ ngắm các hậu cung của các vương phi, các đỉnh tháp và hoa viên, các khóm cây và hồ nước cùng chuồng coi ngựa:
59. Làng xóm từ nay chẳng bóng người,
Trở thành rừng vắng vẻ xa xôi,
Kinh thành ta sẽ nằm hoang lạnh,
Khi các vương nhi đổ máu rồi!
Vì không có cách nào ra khỏi thành được, họ đành lang thang quanh quẩn trong thành khóc lóc tỉ tê.
Trong lúc ấy Bồ-tát được đưa đến đàn tế. Mẹ ngài, hoàng hậu Gotami, quỳ dưới chân vua, khóc lóc van xin vua tha mạng cho con:
60. Thiếp sẽ khổ đau hóa dại khờ,
Đầy mình phủ bụi lấm bơ phờ,
Nếu Can-da bị dâng thần chết,
Thiếp thở nghẹn ngào khóc trẻ thơ.
Khi thấy vua không trả lời, bà ôm lấy bốn vương phi của vương tử và bảo họ:
– Vương nhi phải đau đớn chia lìa các nàng. Sao các nàng không năn nỉ vương nhi ở lại?
61. Sao chẳng nói năng hỡi các nàng,
Đứng đây, bày tỏ mến yêu chàng,
Quanh chàng, ca múa đầy vui thú,
Vừa nắm tay nhau vỗ nhịp nhàng.
62. Cho đến khi chàng hết muộn phiền,
An vui theo lệnh các nàng tiên,
Vì ai có đủ tài ca múa,
Như vậy dù tìm khắp mọi miền?
Rồi thấy rằng không làm gì hơn được nữa, bà ngừng than khóc với các vương phi và bắt đầu nguyền rủa lão Khandahàla:
63. Ta mong mẹ ác tế sư này,
Phải chịu bao đau khổ đắng cay,
Đang xé tim ta khi thấy cảnh,
Can-da yêu quí chết hôm nay.
64. Ta mong vợ ác tế sư này,
Phải chịu bao đau khổ đắng cay,
Đang xé hồn ta khi thấy cảnh,
Can-da yêu quý chết hôm nay.
65. Ta mong nó thấy cả chồng con,
Bị giết, vì nguơi, ác đạo nhân,
Muốn giết người vô can dũng cảm,
Là niềm vinh dự của phàm trần.
Sau đó Bồ tát van xin vua cha trong đàn tế:
66. Một số nữ nhân vẫn ước mong,
Cầu xin để có thật nhiều con,
Họ thường phát nguyện và dâng lễ,
Trời đất, mong con cháu nội đông,
Nhưng không được một con nào cả,
Để cả nhà vui sướng thỏa lòng.
67. Đừng giết chúng con quá bạo tàn,
Dầu con cầu tự được trời ban,
Đừng đem bầy trẻ dâng đàn tế,
Bất kể công lao của mẫu thân.
Khi chàng không thấy vua trả lời, chàng liền quỳ xuống than khóc dưới chân mẹ:
68. Số phận mẹ nay quá hẩm hiu,
Nuôi con, cho bú mớm nâng niu,
Con quỳ xuống dưới chân thiêng mẹ,
Mong ước cha ân phước thật nhiều.
69. Cho con ôm mẹ để hôn chân,
Lần nữa ôm con thật thiết thân,
Trước lúc phân ly, giờ tử biệt,
Mẹ đau thống thiết cả tâm hồn.
Rồi mẫu hậu ngâm kệ khóc than:
70. Quý tử trên đầu hãy buộc lên,
Vòng vương miện kết lá hoa sen,
Và hoa cam-pak này tương xứng,
Vẻ đẹp oai hùng tuổi tráng niên.
71. Lần cuối cùng con hãy tẩm hương,
Loại dầu thơm ngát thật cao sang,
Ngày xưa những lúc chầu vương phụ,
Yến tiệc cung đình con điểm trang.
72. Lần cuồi cùng con khoác cẩm bào,
Lụa Kà-si rực rỡ dường nào,
Hãy mang vàng ngọc và trân bảo,
Con vẫn mang ngày lễ hội sao.
Đến lượt chánh phi của chàng tên là Candà, quỳ xuống chân chàng than khóc thảm thiết:
73. Đại vương, chúa tể của giang sơn,
Ý của ngài ban khắp nước non,
Ngài chẳng còn tình yêu phụ tử,
Với người duy nhất kế ngai vàng.
Vua nghe vậy liền đáp:
74. Ta thương mến tất cả ông hoàng,
Ta cũng quý yêu chính bản thân,
Vương hậu các nàng thân thiết cả,
Ta đem con tế lễ đăng đàn,
Bởi vì ta muốn lên thiên giới,
Chẳng muốn đi vào địa ngục môn!
Nàng Candà kêu to:
75. Chúa thượng giết con trước, đoái thương,
Kẻo niềm thống khổ xé tâm can,
Vương nhi được kết vòng hoa ấy,
Mọi vẻ chàng nay thật vẹn toàn.
76. Giết chúng con trong hố tế đàn,
Nơi Can-da đến, thiếp theo chàng,
Đại vương sẽ được công vô lượng,
Hồn trẻ lên thiên giới trú an.
Vua đáp lời:
77. Nàng chớ ước mong chết trước thời,
Các vương đệ dũng cảm bao người,
Sẽ an ủi đấy, hồng nhan hỡi,
Khi mất chồng yêu quý ấy rồi!
Nàng nghe vậy đấm ngực than khóc, hăm dọa sẽ uống độc dược tự vẫn, và cuối cùng nàng lại kêu gào thảm thiết:
78-79. Cố vấn, thân bằng cạnh quốc vương,
Không ai dám nói để can ngăn,
Triều thần trung tín không ai cả,
Dám thuyết phục vua chớ giết con.
80. Còn có các vương tử khác kia,
Thảy đều đầy đủ mọi oai nghi,
Hãy đem các vị lên đàn tế,
Và để Can-da được thoát đi
81. Hãy xẻ thịt con để cúng dâng,
Nhưng tha thái tử, bậc anh hùng,
Người trên thế giới đồng cung kính,
Chàng dũng sĩ giao chiến tuyệt luân.
Sau khi đã than khóc giải bày mọi nỗi niềm đoạn trường mà vẫn không có gì an ủi được nàng, nàng liền bước lên cạnh Bồ-tát, đứng khóc lóc mãi cho đến khi Bồ-tát bảo nàng:
– Này Candà, suốt đời ta đã biết bao lần tặng nàng ngọc ngà trân bảo trong các dịp yến tiệc hội hè, nay ta chỉ còn món báu vật cuối cùng trên mình ta để tặng nàng, xin nàng hãy nhận lấy. Nàng Candà lại bật khóc và ngâm các vần kệ sau:
82. Ngày xưa vai ấy rực hoa tươi,
Lủng lẳng treo như mũ miện cài,
Thanh kiếm sắt nay tàn ác quá,
Bao trùm bóng tối cả đôi vai.
83. Phút chốc kiếm kia đến tận nơi,
Cổ chàng vô tội lướt qua rồi,
Ôi, đem dây sắt mau ràng buộc
Kẻo trái tim ta sắp vỡ đôi!
84. Lô hội điểm tô với giáng hương,
Lụa là rực rỡ, lắm vòng vàng,
Kìa Can-da, bước lên đàn tế,
Lễ vật xứng danh với quốc vương.
85. Lô hội điểm tô với giáng hương,
Và nhiều áo lụa, ngọc cao sang,
Kìa Can-da bước lên đàn tế,
Lễ vật xứng danh của đại vương.
86. Được tẩm hương dâng lễ tế thần,
Đợi chờ thảm họa đến dần dần,
Kìa Can-da bước lên đàn tế,
Tràn ngập lòng dân nỗi khổ buồn.
Trong khi nàng than khóc như vậy, mọi người chuẩn bị nghi lễ đã xong xuôi trên huyệt tế thần. Họ đưa vương tử đến đặt vào một chỗ ngồi thích hợp với chiếc cổ vươn ra trước. Lão Khanda cầm chén vàng lại gần chàng, đưa kiếm lên, đứng thẳng người và nói:
– Ta sẽ cắt cổ nó.
Khi vương phi thấy vậy, nàng nghĩ thầm: “Ta không còn nơi nào để nương tựa, vậy ta sẽ cầu xin phước lành cho phu quân bằng sức mạnh của chân lý”. Rồi nàng chắp tay lên đi giữa đám người hành lễ, trang nghiêm thực hiện lời Nguyện cầu Chân lý.
*
Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:
87. Khi sửa soạn xong lễ tế đàn,
Can-da ngồi đó đợi tai nàn,
Pañca công chúa đi vào giữa,
Quần chúng khắp nơi, phát nguyện vang:
88.- Quả nhiên đây vị Bà-la-môn,
Làm độc kế do tính dối dang,
Mong ước phu quân yêu dấu ấy,
Chẳng bao lâu nữa được an toàn.
89. Mong các thần, tiên, quỷ chốn đây,
Hãy nghe lời nói của con vầy,
Thực hành nhiệm vụ con giao phó,
Tái hợp con cùng thái tử này.
90. Tất cả thần tiên ở chốn này,
Con xin quỳ xuống dưới chân ngài,
Hộ phù con trẻ không người giúp,
Thương xót nghe con cầu cứu đây.
Sakka Thiên chủ nghe lời cầu xin của nàng và xem thấy sự tình xảy ra như vậy, liền cầm một khối sắt sang lòa hăm dọa nhà vua và đuổi tan đám đông dự lễ ấy.
*
Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:
91. Thiên thần nghe tiếng nọ kêu than,
Muốn giúp chánh nhân, vội giáng phàm,
Vung khối sắt lên, lòe ánh sáng,
Làm tâm bạo chúa phải kinh hoàng.
92. – Bạo chúa biết ta, Thiên đế chăng?
Hãy nhìn xem vũ khí ta mang,
Đừng làm hại trưởng nam vô tội,
Sư tử chúa trong bãi chiến trường.
93. Tội ác này ai thấy chốn nào,
Vợ con bị giết cả nhà sao,
Cùng thần dân quý nhất thiên hạ,
Xứng đáng lên thiên giới tối cao?
94. Bạo chúa vội cùng vị tế sư,
Thả người vô tội, nạn nhân ra,
Đám đông lấy đá và cây gậy,
Cuồng nhiệt say sưa, họ hét la,
Đánh chết Khan-da ngay tại chỗ,
Đền bù bao tội ác gian tà.
Khi họ đã giết lão quốc sư xong, họ tìm cách bắt vua phải chết, nhưng Thiên chủ Sakka ôm vua lại không cho đám dân chúng giết vua. Khi ấy đám đông mới tha mạng vua, nhưng họ nghĩ: “Ta không thể để vua này cai trị hay ở tại kinh thành nữa, ta phải bắt vua ra khỏi thành và ở một nơi do ta định đoạt”.
Thế là họ lột hết cẩm bào của vua, bắt vua mặc áo vàng, trùm khăn vàng lên đầu làm một kẻ khốn cùng và bắt vua phải ở khu vực dành cho hạng khốn cùng. Còn tất cả những kẻ nào nhúng tay vào việc tế lễ này hay đồng tình ủng hộ đều bị trừng trị đích đáng và khi chết phải đọa địa ngục đúng theo số phần của họ.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ sau:
95. Ai đã tạo nên tội ác vầy,
Thẳng đường vào địa ngục kia ngay,
Không ai được tái sinh Thiên giới,
Khi đã mang lầm lỗi thế này.
*
Sau khi đã trừ bỏ đươc hai quái vật độc ác ấy, dân chúng liền mang lễ vật đến làm lễ đăng quang rảy nước thánh lên đầu Thái tử Canda để chàng lên ngôi vua.
96. Khi các tù nhân đã được tha,
Đám đông quần chúng đổ xô ra,
Cử hành đại lễ đầy vinh hiển,
Quán đảnh Can-da kế vị vua.
97. Đông đảo chư thần với thế nhân,
Vẫy khăn, cờ xí, hát chào mừng,
Khởi đầu triều mới đầy hoan lạc,
Hạnh phúc, bình an với thịnh hưng.
98. Thiên thần, phụ nữ cạnh nam nhi,
Gia nhập cùng nhau mở hội hè,
An lạc đầy nhà niềm hạnh phúc.
Khi tù nhân thảy được tha về.
Bồ-tát ra lệnh cung cấp mọi nhu cầu cho cha được đầy đủ, nhưng phế vương không được phép vào kinh thành và khi nào tiền cấp dưỡng đã cạn, ông thường tìm gặp Bồ-tát vào những dịp ngài dự hội hè ở công viên hay những nơi công cộng khác. Vào những lúc ấy, phế vương không chắp tay kính chào con mình vì ông nghĩ: “Ta mới thật là Đại vương!” nên ông chào ngài:
– Vạn tuế chúa công!
Và khi Bồ-tát hỏi ông cần gì, ông nói rõ vật ấy, rồi Bồ-tát ra lệnh đem tiền bạc lại cho cha.
*
Khi bậc Đạo Sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) tìm cách giết hại nhiều người chỉ vì Ta, mà trước kia kẻ ấy đã làm như vậy.
– Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
– Vào thời ấy Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là Khanda, mẫu hậu Mahàmàỳa là hoàng hậu Gotamì, mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là Candà, La-hầu-la là Vàsula, Uppalavannà (Liên sắc hoa ) là Selà, Ca-diếp (Kassapa) thuộc dòng họ Vàma là Surà, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Candasena, Sàriputta (Xà-lợi-phất) là vương tử Suriya và vua Canda chính là Ta.
-ooOoo-
543. Chuyện bậc đại trí Bhùridatta (Tiền thân Bhùridatta)
Bất kỳ mọi bảo ngọc kim ngân…,
Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể trong khi Ngài trú tại thành Xá Vệ, về việc các cư sĩ hành trì trai giới.
Vào ngày trai giới, họ thức dậy thật sớm, phát nguyện hành trì giới luật, bố thí và sau khi thọ trai, hộ đem hương hoa đến tinh xá Kỳ-Viên, gặp thời thuyết Pháp họ đều ngồi xuống một bên nghe giảng.
Bậc Đạo Sư đến tại Chánh Pháp đường ngồi xuống sàng tọa được trang hoàng dành cho đức Phật xong, liền nhìn xuống hội chúng Tỷ-kheo.
Lúc bấy giờ đức Như Lai thường muốn đàm đạo với một vài vị này hay vị kia trong hội chúng, khi bài thuyết giảng có liên quan đến họ, vì thế vào dịp này, Ngài biết rằng bài Pháp thoại liên quan đến các bậc Đạo Sư ngày xưa sắp được thuyết giảng cho các cư sĩ, nên trong khi đàm đạo với họ, Ngài hỏi:
– Này các cư sĩ, các ông có hành trì trai giới chăng?
Khi các cư sĩ đồng thanh đáp có, Ngài bảo:
– Tốt lành thay! Tốt lành thay! Này các cư sĩ, tuy nhiên ngày nay các ông có một vị Phật làm Đạo Sư như Ta và hành trì trai giới thì không phải là chuyện lạ gì, vì các bậc hiền trí ngày xưa, chưa có bậc Đạo Sư nào, cũng đã từ bỏ mọi vinh quang thế tục và giữ ngày trai giới.
Nói xong, theo lời thỉnh cầu của các cư sĩ, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
I .- THÁI TỬ BRAHMADATTA VÀ LONG NỮ
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, ngài phong cho con làm phó vương. Nhưng khi ngài thấy thái tử đạt vinh quang lừng lẫy, ngài lại đâm ra hoài nghi một ngày kia thái tử sẽ chiếm trọn giang sơn. Vì thế ngài bảo con:
– Vương nhi hãy ra đi tìm chỗ cư trú nào mà vương nhi thấy hợp ý trong lúc này, khi ta băng hà hãy về đây kế thừa vương nghiệp.
Thái tử vâng lệnh, giã từ vương phụ ra đi đến vùng núi Yamunà dựng một túp chòi lá nằm giữa dòng sông giáp bờ biển và sống bằng rau quả qua ngày.
Lúc bấy giờ có một long nữ dòng giống Nàga ở dưới biển, mới mất chồng, lòng khao khát dục tình khi nhìn thấy các long nữ khác an vui cảnh chồng con, nên bỏ nơi địa giới, đi lang thang trên bờ biển, chợt thấy dấu chân của thái tử liền theo lối mòn đi đến chòi lá. Lúc ấy thái tử đã đi ra ngoài kiếm trái cây. Long nữ bước vào chòi, thấy chiếc giường gỗ và đồ đạc trong chòi, nhủ thầm: “Đây là nơi cư trú của một ẩn sĩ, để ta thử xem vị này có thật là một vị chân tu không. Nếu vị đó là bậc chân tu, sống khắc kỷ, vị ấy sẽ không chịu nhận chiếc giường trang hoàng lộng lẫy của ta; còn nếu đó là người với tâm tư mê đắm dục lạc, không phải là bậc chân tu tịnh tín thì vị đó sẽ nằm trên chiếc giường của ta, rồi ta sẽ lấy vị đó làm chồng và ở lại đây”.
Vì thế long nữ vội trở về cõi mình góp nhặt hương hoa thần tiên trang hoàng một sàng tọa toàn bằng hoa và sau khi làm lễ cúng hương hoa, rắc phấn hương khắp chòi và trang hoàng cái chòi thật đẹp, nàng đi về cõi mình trú ngụ. Buổi chiều khi thái tử trở về, chàng vào chòi thấy mọi vật như thế liền nói:
– Ai đã sắm sửa tọa sàng này?
Khi chàng ăn đủ loại trái cây xong, chàng lại kêu lên:
– Ôi, hoa thơm ngạt ngào, toạ sang này êm ái quá!
Lòng chàng đầy hân hoan, vì thật tâm chàng không phải là bậc chân tu khổ hạnh, chàng liền nằm xuống giường hoa và ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau chàng thức dậy và cũng đi kiếm trái cây, chẳng nhớ quét dọn chòi lá. Vào lúc ấy long nữ Nàga xuất hiện thấy hoa héo úa cả liền hiểu ngay: “Kẻ này còn tham dục lạc, không phải là bậc chân tu, ta có thể bắt lấy được rồi”. Thế là nàng lượm hết hoa cũ, đem hoa khác đến trải lên tọa sàng thật đẹp, trang hoàng túp chòi lá, rải hương hoa như trước trên thềm nhà, rồi trở về cõi mình cư ngụ. Thái tử lại ngủ một đêm nữa trên giường hoa và sáng hôm sau chàng tự nghĩ: “Ai đã trang hoàng chiếc chòi này?”
Vì thế chàng không đi hái trái nữa, chàng đứng ẩn mình không xa túp liều. Long nữ Nàga thu lượm hoa xong đi đến lều của chàng. Vương tử chiêm ngưỡng dung nhan cực kỳ lộng lẫy của long nữ Nàga, liền say mê nàng ngay và chàng lẳng lặng đi vào chòi trong khi nàng đang trang hoàng tọa sàng và hỏi nàng là ai.
– Tâu đức ông, tiện thiếp là long nữ Nàga.
– Chẳng hay nàng đã có gia thất chưa?
– Tiện thiếp là sương phụ không có chồng, chẳng hay chàng ở đâu?
– Ta là thái tử Brahmadatta, con vua tại thành Ba-la-nại; nhưng còn nàng, tại sao lại đi phiêu bạt rời bỏ xứ sở của dòng giống Nàga?
– Tâu đức ông, chỉ vì tiện thiếp trông thấy hạnh phúc của các nàng Nàga yên bề gia thất nên lòng chưa thỏa mãn về đường tình duyên đứt gánh, phải lang bạt đó đây tìm bóng tùng quân để nương tựa tấm thân bồ liễu.
– Ta cũng không phải là vị chân tu, mà ta đến trú ngụ nơi đây chỉ vì cha ta đuổi ta đi; vậy nếu nàng không chê ta, ta xin nguyện cùng nàng làm đôi vợ chồng sống hòa hợp nơi đây.
Tức thì long nữ bằng lòng và từ đó họ chung sống rất hoà hợp trong rừng ấy. Nhờ thần lực của long nữ, nàng biến hóa ra một ngôi nhà sang trọng có sàng tọa quý giá trong khuê phòng lộng lẫy. Từ đó chàng không còn phải ăn hoa quả nữa, nhưng được hưởng toàn cao lương mỹ vị của thần tiên. Sau một thời gian nàng thụ thai và sinh được một con trai, họ đặt tên là Sàgara-Brahmadatta. Khi ấu nhi đã chập chững biết đi, nàng lại hạ sinh được một gái trên bờ biển nên được đặt tên là Samuddajà.
Lúc bấy giờ một sơn nhân trú tại thành Ba-la-nại tình cờ đến nơi đây gặp vương tử, chào hỏi xong thì nhận ra chàng, nên sau khi ở lại đó vài ngày, gã nói:
– Tâu vương tử, tiểu thần xin về thông báo với vương tộc biết ngài đang cư trú nơi đây.
Thế rồi gã ra về kinh thành. Lúc ấy vua vừa băng hà, các đại thần làm lễ tang vua xong, liền hội họp nhau lại sau đó bảy ngày, rồi họ quyết định:
– Đất nước không thể một ngày không có vua, nay ta chẳng biết vương tử trú ngụ phương nào: còn sống hay chăng, để chúng ta bảo vương xa đến đón ngài về làm vua.
Vừa khi ấy gã sơn nhân về thành, hay tin đó vội đến tìm các đại thần báo cho họ biết: trước khi đến đây, gã đã ở gần vương tử mấy ngày. Các đại thần rất trọng đãi gã, rồi cùng đi theo lời gã chỉ dẫn đến gặp vương tử. Sau khi chào hỏi thân tình xong, họ báo cho vương tử biết vua vừa băng hà và mời chàng về kế vị, chàng nghĩ thầm: “Ta muốn biết long nữ Nàga tính sao đây?”.Chàng liền bảo vợ:
– Này hiền thê, vua cha ta vừa băng hà, các đại thần đã đến giương chiếc lộng hoàng gia lên cho ta, vậy đôi ta cùng đi về trị vì Ba-la-nại, rộng muời hai đặm, nàng sẽ thành chánh hậu trong đám mười sáu ngàn cung phi ấy.
– Phu quân ôi, thiếp không thể nào đi theo chàng được.
– Tại sao vậy? Dòng giống thiếp có thứ độc dược giết người và tánh khí lại dễ nóng giận vì chuyện không đâu, huống chi là việc hờn ghen trong cung cấm là chuyện hệ trọng, nếu thiếp gặp việc gì bất bình và chỉ cần đưa mắt giận dữ nhìn, tức thì tia mắt bắn ra như nắm trấu, vì thế thiếp không thể nào ra đi theo chàng được.
Ngày hôm sau vương tử lại bảo nàng cùng đi, nàng đáp:
– Thiếp không thể nào đi được, nhưng các con của thiếp lại không phải thuộc nòi giống rồng Nàga, chúng là con của chàng, thuộc giống người; nếu chàng còn thương thiếp xin hãy chăm sóc lấy chúng. Nhưng vì chúng quen thói ở nước, rất yếu đuối, chúng sẽ chết nếu đi đường chịu dãi dầu nắng gió, vì vậy thiếp xin làm một con thuyền đổ nước vào để chúng chơi đùa trong nước và khi đến kinh thành, xin chàng cho lệnh đào một hồ nước cạnh hoàng cung cho chúng, như thế chúng mới khỏi khổ được.
Nói xong, nàng cung kính chào giã từ vương tử, đi vòng quanh chàng một cách kính cẩn, ôm các con vào lòng hôn đầu chúng và giao con cho chàng, khóc lóc một hồi và biến đi về cảnh giới của rồng Nàga. Vương tử cũng nặng trĩu u sầu, ràn rụa nước mắt, liền đến gặp các đại thần. Tức thì họ rảy nước thánh lên đầu chàng làm lễ phong vương và thưa:
– Tâu Đại vương, xin Đại vương trở về thành.
Chàng ra lệnh cho họ đóng thuyền xong đặt lên xe và đổ nước vào.
– Hãy rảy hương hoa đủ màu sắc trên mặt nước vì các con ta tính ưa nước, thích vui đùa trong nước.
Các đại thần tuân lệnh. Khi tân vương đến thành Ba-la-nại, ngài vào thấy thành trang hoàng rực rỡ, liền bước lên lầu an nghỉ, có mười sáu ngàn mỹ nữ ca múa vây quanh cùng các cận thần. Ngài cho mở đại yến trong bảy ngày xong, ra lệnh đào hồ nước cho các vương tử để các vương tử chơi đùa suốt ngày.
Nhưng một ngày kia, khi nước được dẫn vào hồ, một con rùa trôi vào theo, rồi không tìm thấy lối ra, nó lội trên mặt nước. Trong khi các vương tử nô đùa, rùa hiện ra, thò đầu nhìn đám trẻ rồi lại lặn xuống nước. Đám trẻ thấy rùa, sợ hãi chạy đi báo với vua cha:
– Phụ vương ôi, một con rùa trong hồ làm chúng con sợ quá.
Vua ra lệnh bắt con rùa và một người thả lưới xuống bắt được rùa đem lại trình vua. Khi các vương tử trông thấy rùa liền la to:
– Phụ vương ôi, nó là con quỷ.
Vì vua thương yêu con nên nổi giận với con rùa, ra lệnh cho quân hầu trừng trị nó. Một người bảo:
– Nó là quân thù của Đại vương, vậy phải bảo nó vào cối mà giã nát ra thành cám.
Kẻ khác nói:
– Đem nấu nhừ ra mà ăn.
Kẻ khác nữa lại bảo:
– Đem nó nướng than đi.
Hoặc:
– Bỏ nó vào nồi và đốt lò.
Nhưng có một đại thần rất sợ nước bảo:
– Ném nó xuống vực xoáy của sông Yamunà, nó sẽ bị tiêu hủy hoàn toàn, không còn hình phạt nào nặng hơn nữa.
Rùa nghe thế liền rụt cổ lại bảo:
– Này hiền hữu, ta đã phạm tội gì khiến ông nói đến một hình phạt nặng nề như vậy dành cho ta? Các hình phạt kia ta còn chịu được, chứ hình phạt này thật vô cùng tàn bạo, xin ông đừng nhắc đến nữa.
Khi vua nghe được, ngài bảo:
– Phải hành hình nó như thế.
Và ngài ra lệnh ném nó vào vực xoáy của sông Yamunà, nơi đây nó tìm ra dòng nước đưa nó đến động rồng Nàga. Lúc bấy giờ có vài tiểu long Nàga thuộc dòng vua rồng Dhatarattha đang nô đùa trên dòng nước, thấy rùa liền bảo nhau:
– Bắt lấy tên tiểu nô kia.
Rùa nghĩ thầm: “Ta vừa thoát khỏi tay vua Ba-la-nại, lại rơi vào tay bọn quỉ Nàga hung ác này, làm sao thoát được đây?” Nó liền nghĩ ra một kế, bịa ra một chuyện và bảo chúng:
– Tai sao các long tử thuộc dòng dõi triều đình vua Dhatarattha lại nói năng như vậy? Ta là linh quy tên Cittacùla, sứ giả của vua Ba-la-nại đến yết kiến vua Dhatarattha, đức vua của ta muốn gả công chúa của ngài cho long vương Dhatarattha, vậy hãy cho ta được bái yết ngài.
Chúng bằng lòng dẫn rùa đến, nhưng khi thấy rùa, vua không đẹp ý, bảo:
– Những kẻ có hình thù tồi tàn như vậy không thể nào làm sứ giả được.
Rùa nghe vậy liền đáp lại, nêu rõ các đức tính của nó cho vua hay:
– Tại sao Đại vương lại cần sứ giả cao như cây dừa làm gì? Hình dạng nhỏ bé hay cao lớn đâu có gì quan trọng? Điều tối quan trọng là tài đức để thi hành sứ mạng được giao phó. Tâu Đại vương,vua của chúng thần có rất nhiều sứ giả. Con người thì làm việc trên đất liền, chim chóc thì làm việc trên không, tiểu thần thì ở dưới nước, vì tiểu thần là kẻ được đức vua sủng ái tên gọi là Cittacùla, tiểu thần giữ một chức vụ đặc biệt, xin đừng nhạo báng tiểu thần.
Sau đó vua Dhatarattha hỏi rùa tại sao được vua bảo đến đây, nó liền đáp:
– Đức vua của tiểu thần muốn bày tỏ tình thân hữu với mọi đức vua trên cõi Diêm-phù-đề và nay ngài muốn gả công chúa Samuddajà để tỏ tình thân hữu với long vương Nàga, vậy xin Đại vương chớ chậm trễ, hãy lập tức gửi sứ giả đi cùng tiểu thần định ngày hôn lễ và đón công chúa về.
Vua rồng vô cùng đẹp ý, tán tụng rùa hết lời và ra lệnh cho bốn long tử Nagà cùng đi với rùa định ngày hôn lễ sau khi gặp vua kia rồi trở về xứ. Bốn chàng tiểu long cùng rùa từ giã động chúa rồng Nàga. Rùa trông thấy một hồ sen giữa sông Yamunà và kinh thành Ba-la-nại, muốn trốn đi, liền bày kế nói:
– Này các long tử, đức vua cùng vương hậu, vương tử của ta đã thấy ta xuất hiện trên mặt nước khi ta đến cung vua, nên các ngài bảo ta dâng lên vài hoa sen và củ sen, vậy ta phải đi hái đã, các long tử để ta đi một lát, hễ không thấy ta về thì cứ đi thẳng vào xin yết kiến đức vua, ta sẽ đến đó để gặp các chàng sau.
Họ tin lời để rùa ra đi, nó liền trốn biệt. Các chàng tiểu long không thấy rùa trở lại tưởng rằng nó đã đến chầu vua, liền đi đến hoàng cung giả dạng các thanh niên. Đức vua tiếp đãi ân cần và hỏi họ từ đâu đến. Họ bảo:
– Tâu chúa thượng, từ Dhatarattha.
– Các công tử có việc gì chăng?
– Tâu chúa thượng chúng thần là sứ giả của Long vương Dhatarattha, xin kính chúc chúa thượng ngọc thể an khang và đức vua của chúng thần xin kính tặng chúa thượng bất cứ bảo vật nào chúa thượng đẹp ý. Đức vua của chúng thần cũng cầu xin Chúa thượng gả công chúa Samuddajà để làm vương hậu của ngài.
Rồi họ ngâm vần kệ thứ nhất để giải thích việc này:
1. Bất kỳ mọi bảo ngọc kim ngân,
Tích trữ trong cung điện chúng thần,
Đều của Đại vương tùy thánh ý,
Xin trao công chúa đến long quân.
Vua nghe vậy, liền đáp vần kệ thứ hai:
2. Từ trước chẳng hề có thế nhân,
Kết duyên con gái với long quân,
Sánh đôi vậy thật không tương xứng,
Sao trẫm nghĩ ra chuyện lạ lùng?
Các chàng tiểu long bảo:
– Ví như việc thông gia với Đại vương không làm đẹp ý thánh thượng,vậy tại sao thánh thượng lại sai sứ thần linh qui Cittacùla đến yết kiến Đại vương của chúng thần và ngõ lời muốn gả công chúa Samuddajà? Sau khi đã gửi sứ giả đi như vậy, Thánh thượng lại tỏ ra khinh mạn Đại vương của chúng thần. Nay chúng thần sẽ biết cách đối phó xứng đáng với thái độ khinh mạn ấy.
Nói xong họ ngâm hai vần kệ để hăm dọa:
3. Ngài sẽ bỏ thân, hỡi Đại vương,
Ngài và đất nước nghĩa gì chăng?
Trước cơn thịnh nộ từ long chúa,
Vinh hiển thế nhân sẽ úa tàn.
4. Ngài kẻ yếu hèn, một thế nhân,
Phải suy tàn bởi tính kiêu căng,
Dám khinh thái tử Ya-mu ấy,
Con của Va-ru-na Đại vương.
Vua liền đáp hai vần kệ:
5. Ta chẳng hề khinh bỉ Đại vương,
Dha-ta-ra hiển hách danh lừng,
Là vua bộ tộc Nà-ga ấy,
Thừa hưởng vương quyền đúng lẽ chân.
6. Song dù ngài vĩ đại cao sang,
Sát- đế- ly dòng dõi xuất thân,
Chính thống Vi-đề-ha quý tộc,
Ngài đừng mơ tưởng đến công nương.
Mặc dầu các chàng tiểu long Nàga muốn giết vua ngay lập tức bằng một luồng khí độc, họ kịp suy nghĩ lại rằng họ được phái đi đến đây định ngày hôn lễ, cho nên giết vua rồi bỏ đi thì thật không phải lẽ, vì thế họ bảo:
– Chúng thần xin từ tạ để về tâu lại Đại vương của chúng thần rõ.
Rồi họ biến mất. Khi về, vua hỏi xem họ đã rước công chúa được chưa, họ giận dữ đáp:
– Tâu Đại vương, tại sao Đại vương lại phái chúng thần đến đó mà chẳng có duyên cớ gì cả.Ví dụ Đại vương muốn giết chúng thần, xin giết ngay tại đây cho thỏa dạ. Vua nước ấy mạ lỵ, phỉ bàng Đại vương, tôn con gái mình lên tột đỉnh và kiêu mạn về dòng dõi vương gia.
Cứ thế họ thêu dệt thêm câu chuyện khiến vua nổi giận, ban lệnh họp quần thần binh lính lại, bảo:
7. Này As-sa với Kam-ba-la,
Triệu tập mọi dân chúng mãng xà,
Tiến đến Ba-la thành tụ họp,
Song đừng làm hại trẻ hay già.
Các chúa Nàga hỏi:
– Nếu không cần phải hại ai cả thì chúng thần đến đó để làm gì?
Vua liền ngâm kệ bảo họ phải làm như sau:
8. Ở trên hồ nước, các hoàng thành,
Đường xá và trên các ngọn ngành,
Trên các cung môn, cần kết dải,
Đong đưa theo gió nhẹ, treo mình.
9. Mào trắng và thân trắng mãng xà,
Bao quanh thành thị của nhà vua,
Vòng vây ta xiết dần dần chặt,
Dân xứ Kà-si sẽ sợ ta.
Binh lính Nàga tuân lệnh.
*
Bậc Đạo Sư tả quang cảnh xảy ra:
10. Nhìn đám mãng xà ở khắp nơi,
Đàn bà run rẩy, đám đông người,
Trong khi quái vật giương mào dậy,
Dân chúng thảy la hét rụng rời.
11. Dân xứ Ba-la-nại vội nằm,
Trước đoàn dã thú đến xâm lăng,
Giơ tay khẩn thiết đồng cầu nguyện:
– Xin gả công nương với chúa rồng!
*
Trong lúc vua đang ngự trên long sàng, ngài nghe tiếng kêu khóc của các vương phi cùng nhiều thần dân khác và chính ngài cũng sợ chết vì những lời hăm dọa của bốn tiểu long kia, nên ngài kêu to ba lần:
– Ta sẽ gả công chúa Samuddajà cho vua Dhatarattha.
Khi các chúa rồng Nàga nghe được lời ấy liền rút quân lùi lại cách một dặm đường, và cắm trại tại đó, xây dựng lên một kinh thành giống cảnh của chư Thiên, rồi cho người mang lễ vật cầu hôn đến nhà vua:
– Xin hoàng thượng gả công chúa như đã hứa.
Vua nhận lễ vật xong, ra lệnh cho các người đem lễ vật ấy lui về và ngài bảo:
– Các ngươi hãy ra về, trẫm sẽ cho các đại thần đem công chúa đến.
Rồi ngài triệu công chúa lại, đem nàng lên thượng lầu,mở cửa sổ ra bảo nàng:
– Này công chúa, con hãy ngắm kinh thành tráng lệ kia, vua nọ cầu hôn con về làm chánh hậu tại đó; kinh thành đó ấy không xa mấy, bao giờ con thấy nhớ nhà cứ về thăm cha, nhưng bây giờ con phải vu qui.
Sau đó vua ra lệnh các cung nữ gội đầu, trang điểm cho công chúa đủ ngọc ngà trân bảo rồi đưa nàng lên loan xa che kín, có các đại thần hộ tống. Các vua chúa Nàga ngự ra đón nàng theo lễ nghi rất trọng thể. Các đại thần vào thành, tiễn biệt công chúa và ra về được tặng vô số ngọc vàng. Công chúa được đưa vào hoàng cung đặt nằm trên tọa sàng tráng lệ như cảnh tiên, và các thiếu nữ Nàga có lưng gù cùng những dị tật khác hầu hạ quanh nàng như thể thị nữ ở cõi nhân gian vậy. Khi công chúa vừa đặt lưng xuống tọa sàng thần tiên này, nàng cảm thấy êm dịu lạ lùng và ngủ thiếp đi. Vua Dhatarattha sau khi đã tiếp đón nàng xong, liền biến đi cùng với hội chúng của mình về cảnh giới của loài rồng Nàga.
Khi công chúa thức dậy và thấy tọa sàng thần tiên trong cung điện xây bằng ngọc vàng châu báu cùng các hoa viên và hồ nước trong cảnh giới Nàga chẳng khác nào kinh thành tráng lệ của thiên giới, nàng hỏi các thị nữ gù lưng quanh nàng:
– Kinh thành này thật tuyệt diệu, chẳng giống kinh thành của ta, vậy nó là của ai thế?
– Tâu lệnh bà, đó là kinh thành thuộc quyền Chúa thượng của lệnh bà, những kẻ thiếu đức không thể nào hưởng được cảnh vinh quang như thế này. Lệnh bà đã được vinh quang như vậy là nhờ công đức cao trọng của lệnh bà.
– Sau đó vua Dhatarattha ra lệnh đánh chiêng trống khắp hoàng thành rộng năm trăm dặm bố cáo với thần dân rằng kẻ nào để lộ tướng rồng tinh cho công chúa Samuddajà thấy sẽ bị trừng trị ngay; Vì thế không ai dám xuất hiện nguyên hình trước mặt nàng. Cho nên nàng hưởng cuộc sống rất êm ấm hòa hợp với nhà vua vì tưởng rằng đấy là cảnh giới nhân gian.
II.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA
Theo thời gian vương hậu Dhatarattha thụ thai và sinh hạ một vương tử có dung mạo khôi ngô nên được đặt tên là Sudassana, sau đó bà lại sinh hạ vương tử thứ hai đặt tên là Datta; đó chính là Bồ-tát. Rồi bà lại sinh vương tử thứ ba đặt tên là Subhaga và vương tử thứ tư tên Arittha. Dù đã sinh hạ bốn vương tử, bà vẫn chưa hề biết đây là cảnh giới của rồng Nàga. Nhưng một ngày kia, có người bảo Arittha:
– Vương hậu là giống người chứ không phải giống Nàga.
Arittha tự nhủ: “Để ta thử mẹ xem sao”. Một ngày kia trong lúc đang bú sữa mẹ, vương tử xuất lộ nguyên hình rắn rồng, lấy đuôi ve lưng bàn chân mẹ. Khi hoàng hậu thấy rồng, kinh hãi thét lên ném con xuống đất, lấy móng tay cào vào mắt con đến chảy máu ra. Vua nghe tiếng thét hỏi lý do và khi vua nghe chuyện Arittha làm ra, ngài bước đến hăm dọa:
– Đem tên tiểu nô này giết đi.
Công chúa biết bản tính nóng nảy của vua, liền lên tiếng bênh vực con:
– Tâu chúa thượng, thần thiếp đã đánh vào mắt vương nhi rồi, xin Chúa thượng tha tội cho nó.
Vua nghe vương hậu nói vậy liền tha:
– Thôi trẫm còn làm sao được nữa?
Rồi vua tha thứ cho con. Từ ngày đó hoàng hậu mới biết đây là xứ rồng Nàga và cũng từ đó Arittha được gọi là Độc nhãn Arittha (Kànàrittha) .
Bấy giờ các vương tử đã đến tuổi trưởng thành. Vua cha giao cho mỗi vị một vương quốc rộng chừng một trăm dặm vuông, vinh quang lừng lẫy và mỗi vị có mười sáu ngàn long nữ Nàga hầu hạ trong cung đình. Vương quốc của vua cha cũng chỉ một trăm dặm vuông. Các vương tử hằng tháng đều đến vấn an đức vua cùng hoàng hậu. Nhưng Bồ-tát cứ nửa tháng lại yết kiến cha mẹ một lần, ngài vẫn thường đưa ra một số vấn đề xảy ra cảnh giới Nàga và vẫn thường cùng vua cha đến yết kiến Đại Thiên vương Virùpakkha (Quảng Mục) đàm đạo các vấn đề ấy.
Một ngày kia, Đại vương Virùpakkha cùng với hội chúng Nàga lên cảnh giới chư Thiên để chầu Thiên chủ Sakka, một vấn đề được đưa ra đàm dạo nhưng không có ai trong chư Thiên giải đáp được trừ bậc Đại Sĩ lúc ấy đang ngồi trên bảo tọa. Thế rồi Thiên Đế tỏ lòng hâm mộ ngài, đem tặng hoa quả của cõi trời và bảo ngài:
– Này Hiền giả Datta, ngài có đại trí lớn như quả địa cầu, từ nay ta xin gọi ngài là Bhùridatta (bậc Đại trí Datta) .
Và Thiên chủ ban ngài danh hiệu ấy. Sau đó bậc Đại Sĩ bái yết Thiên chủ Sakka để tỏ lòng sùng kính và khi ngài ngắm vẻ huy hoàng tột đỉnh của thiên triều cùng các tiên nữ, ngài mơ ước được lên thiên giới: “Ta còn làm gì được với tướng rồng rắn chuyên ăn ếch nhái này nữa? Thôi ta nguyện trở về thế giới rồng rắn hành trì trai giới, tu tập công hạnh để được sinh lên cõi chư Thiên”.
Suy nghĩ như vậy xong, ngài liền xin cha mẹ khi trở về xứ rồng Nàga:
– Tâu phụ vương cùng mẫu hậu, con nguyện hành trì trai giới.
– Này vương nhi, con cứ hành trì cho thỏa nguyện, nhưng trong lúc trì giới con chớ ra ngoài, chỉ ở nội trong cung điện trống vắng của loài Nàga vì người trần thế rất kinh sợ rồng Nàga.
Nói xong ngài cuộn mình trên tổ kiến và nói to:
– Kẻ nào muốn cứ đến lấy máu thịt xương da ta đi.
Rồi ngài trì giới gồm bốn phép, nằm đó với thân tướng chỉ gồm có đầu đuôi mà thôi. Đến rạng ngày hôm sau, các long nữ Nàga đến và làm theo lệnh ngài đã ban, đưa ngài về lại cảnh giới Nàga như cũ và cứ thế ngài trì giới trong suốt một thời gian dài.
III.- HAI CHA CON BÀ-LA-MÔN SĂN THÚ
Lúc bấy giờ có một người Bà-la-môn sống ở một làng gần cổng thành Ba-la-nại thường cùng con trai tên gọi Somadatta vào rừng đặt bẫy chông bắt thú rừng rồi gánh thịt đi bán để sinh nhai. Một ngày kia, gã chẳng bắt được con thú nào dù chỉ một tắc kè nhỏ, gã bảo con:
– Nếu ta về nhà tay không, mẹ con sẽ giận dữ, vậy ta cứ bắt lấy con gì cũng được.
Thế là gã đi về phía tổ kiến nơi Bồ-tát đang tĩnh tọa và quan sát dấu chân nai thường xuống dòng sông Yamunà để uống nước, gã bảo :
– Này con, đây là hang nai, con hãy về đợi trong lúc cha bắt nai đến uống nước.
Và gã giương cung đứng dưới gốc cây chờ nai đến. Vào buổi chiều, một con nai đến uống nước liền bị bắn trọng thương, tuy nhiên nó chưa ngã xuống ngay mà vì mũi tên làm tuôn máu xối xả, nó liền chạy trốn. Hai cha con đuổi theo tận nơi nó ngã xuống, bắt lấy rồi ra khỏi rừng đến gốc cây đa thì mặt trời vừa lặn.
– Lúc này đi xa thì bất tiện lắm, thôi ta ở lại đây.
Nói xong họ đặt con nai qua một bên rồi trèo lên cây nằm trên cành. Gã Bà-la-môn thức giấc lúc rạng đông, cố nghe ngóng tiếng động của nai, vừa lúc đó các thị nữ Nàga đến dâng tọa sáng hương hoa cho Bồ-tát. Ngài đã bỏ xác rồng và hiện hình Thiên thần mang đủ bảo vật trang nghiêm ngồi trên tọa sàng sực nức hương hoa trong dáng điệu uy nghi của một Thiên đế Sakka.
Các thị nữ Nàga thành kính cúng dường ngài vô số hương hoa rồi trỗi khúc nhạc thiên đường, đồng thanh ca múa. Khi gã Bà-la-môn nghe tiếng nhạc gã tự hỏi: “Ai đây, ta phải xem sao mới được”. Gã liền gọi con trai nhưng cậu bé vẫn cứ ngủ say. Gã tự nhủ: “Thôi để nó ngủ. Nó còn mệt thì ta đi một mình vậy”. Gã leo xuống đất tiến đến gần ngài . Các thị nữ Nàga thấy gã liền độn thổ ngay cùng các nhạc khí, trở về cảnh giới Nàga, chỉ còn Bồ-tát ngồi lại một mình. Gã Bà-la-môn đứng gần ngài ngâm hai vần kệ hỏi ngài:
12. Hồng nhãn thiếu sinh được thấy đây,
Là ai, tỏa rộng đôi bờ vai,
Mười nàng xuân nữ vây quanh nọ,
Đeo xuyến vàng, xiêm áo đẹp thay.
13. Chàng là ai ở giữa rừng xanh,
Như lửa thêm dầu mỡ mới tinh,
Có phải Sak-ka, thần đại lực,
Hay là rồng chúa đại oai danh?
Bậc Đại Sĩ nghe vậy thầm nghĩ: “Nếu ta bảo là một vị Sakka (Đế Thích), gã sẽ tin ngay vì gã là một Bà-la-môn, nhưng ta phải nói sự thật: Thế là ngài nói về nòi giống Nàga của ngài:
14. Ta chúa Nàga, lực đại hùng,
Với luồng khí độc mạnh vô song,
Đất nước phồn vinh, dân lớn bé,
Ta đây nổi giận giết tiêu vong.
15. Mẫu thân ta chính Sa-mud-da,
Chúa tể Dha-ta, thân phụ ta,
Em của Su-das-san thái tử,
Tên ta là Đại trí Dat-ta.
Nhưng khi bậc Đại Sĩ nói xong, ngài liền nghĩ: “Bà-la-môn này hung ác, gã có thể phản ta, và tiết lộ ta với người bắt rắn và thế là cản trở việc trì giới của ta.Vậy ta đưa gã về vương quốc Nàga, tiếp đãi gã trọng thể tại đó, như thế ta vẫn không gián đoạn việc hành trì giới luật”. Thế là ngài bảo gã:
– Này Hiền hữu Bà-la-môn, ta muốn tiếp đãi ông thật trọng thể, vậy hãy theo ta đến xứ sở Nàga đầy lạc thú bây giờ. Tâu chúa thượng, hạ thần còn một con trai, nếu hạ thần có đi, xin cho con trẻ đi cùng.
Bồ-tát đáp:
– Hiền hữu cứ đi tìm hiền điệt lại đây.
Rồi ngài tả nơi cư ngụ của ngài cho gã biết:
16. Hồ kia u tối thật kinh hoàng,
Sóng nước không ngừng bão tố dâng,
Nhà của ta thần dân trú ngụ,
Còn ai dám trái lệnh ta ban.
17. Hãy lặng chìm trong làn sóng xanh,
Đàn công, đàn hạc gọi đồng thanh:
– Xuống đây tận hưởng niềm hoan lạc
Dành sẵn cho ai giữ giới hành.
Gã Bà-la-môn đi tìm con kể chuyện cho con nghe rồi đem con trở lại và bậc Đại Sĩ liền đưa họ đến bên bờ sông Yamunà. Khi đứng đó, ngài bảo:
18. Hiền hữu cùng con chớ ngại ngùng,
Theo lời ta bảo, sống ung dung,
Vinh quang hạnh phúc trong cung điện,
Lạc thú ta ban đủ mọi phần.
Nói xong, bậc Đại Sĩ dùng thần lực đưa hai cha con đến cảnh giới Nàga, nơi đây họ hưởng cuộc sống thần tiên. Ngài ban cho họ phúc lạc của tiên giới, mỗi người có đến bốn trăm thiếu nữ Nàga hầu hạ, vinh hoa phú quý thật không sao kể xiết. Bồ-tát vẫn tinh tấn hành trì giới luật, cứ nửa tháng ngài đi bái yết phụ vương, mẫu hậu và thuyết Pháp; còn khi đến thăm gã Bà-la-môn, ngài thường vấn an gã và bảo:
– Hiền hữu cần gì cứ nói cho ta biết, xin cứ hưởng lạc thú, đừng để bất toại điều gì.
Rồi sau khi chào hỏi Somadatta ân cần, ngài trở về tu thất của ngài.
Gã Bà-la-môn, sau khi sống trong cảnh giới Nàga được một năm, do thiếu tu tập công đức trước đây, dần dần cảm thấy không toại ý, chỉ muốn trở về nhân gian. Cảnh giới Nàga đối với gã chẳng khác nào địa ngục. Cung điện được trang hoàng lộng lẫy chỉ giống như nhà tù, các cung nữ Nàga được điểm trang vàng ngọc cũng tựa bầy quỉ cái. Gã nghĩ thầm: “Ta chán lắm rồi, để ta hỏi thử xem Somadatta nghĩ sao?”.Gã tìm con trai và hỏi:
– Con có được toại nguyện chăng?
– Làm sao con lại bất mãn được? Cha con ta không nên nghĩ như vậy.Còn thân phụ không toại nguyện chăng?
– Đúng vậy.
– Tại sao thế?
– Vì ta không gặp được mẹ con cùng anh em con, thôi ta cùng đi về xứ.
Người con bảo không muốn đi về, nhưng vì bị cha nài mãi, nên cuối cùng cũng thuận. Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Con ta đã ưng thuận ra đi, nhưng nếu ta bảo với hoàng tử Bhùridatta rằng ta không toại nguyện, hoàng tử sẽ ban cho ta thật nhiều ân huệ khác nữa và thế là ta không thể đi về. Mục đích của ta chỉ đạt được bằng một cách này thôi: Ta sẽ tả cảnh huy hoàng của ngài rồi hỏi ngài: “Tại sao ngài rời bỏ mọi vinh quang để lên nhân thế hành trì trai giới?”. Khi ngài đáp: “Để được lên thiên giới”, ta sẽ bảo ngài: “Chúng thần lại càng phải nên tu tập như thế hơn nữa, vì chúng thần đã sống bằng nghề sát sinh hại mạng. Thần cũng muốn trở lại trần thế để thăm quyến thuộc xong rồi sẽ xuất gia sống đời khổ hạnh.Thế là ngài sẽ phải để ta đi”.
Sau khi quyết định xong, một ngày kia Bồ-tát đến hỏi thăm gã xem có gì chưa toại ý chăng, gã liền vội trấn an ngài rằng không có điều gì gã mơ ước mà ngài không ban cho gã, rồi không hề nói gì đến ý định ra đi, trước tiên gã chỉ ngâm kệ tả cảnh phồn vinh thịnh vượng của xứ ngài:
19. Đất bằng trải rộng khắp nơi nơi,
Hoa trắng Ta-ga nở rợp trời,
Tổ bọ yên chi màu đỏ thắm,
Rừng xanh rực rỡ phủ nền tươi.
20. Đền đài linh hiển khắp trong rừng,
Hồ lắm thiên nga đắm mắt trần,
Tô điểm lá sen tàn rải rác,
Khác nào các tấm thảm đang nằm.
21. Cung đình ngàn cột trụ nguy nga,
Tiên nữ bao nàng rộn múa ca,
Cột trụ dát toàn châu ngọc quý,
Tứ bề phản chiếu ánh trời xa.
22. Ngài có cung đình thật hiển vinh,
Chính nhờ công đức đã hoàn thành,
Mọi niềm ước nguyện đều viên mãn,
Ngay khi nguyện ước mới thành hình.
23. Ngài chẳng ước mơ điện Ngọc hoàng,
Thiên triều tráng lệ sánh sao ngang?
Cung ngài vinh hiển còn hơn thế,
Với cảnh huy hoàng chiếu ánh quang.
Bậc Đại Sĩ đáp:
– Này hiền hữu Bà-la-môn, đừng nói thế, cảnh vinh quang của ta so với Thiên chủ Sakka chỉ như hạt cải bên cạnh núi Tu-di (Meru). Chúng ta không bằng được quần thần của ngài nữa.
Rồi ngài ngâm kệ:
24. Ý dẫu tối cao chẳng dám mơ.
Vinh quang ngôi vị của Sakka,
Bốn Thiên vương ở trong triều đại,
Mỗi vị một miền được định ra.
Khi ngài nghe gã lập lại: “Cung điện của ngài chẳng khác nào cung Sakka Thiên chủ, ngài đáp:
– Ta đã nghĩ đến chuyện này từ lâu, chính vì ta muốn lên điện Vejayanta (Tối thắng ở cõi thiên) mà ta thực hành sự tu tập trai giới.
Rồi ngài ngâm kệ tả rõ tâm nguyện mình:
25. Ta mong tha thiết cảnh cao đường,
Của các bậc tiên thánh vĩnh hằng,
Vì thế ta ngồi trên tổ kiến,
Hành trì giới hạnh mãi không ngừng.
Gã Bà-la-môn nghe vậy thầm nghĩ: “Nay ta đã có cơ hội rồi đây”, và với lòng hân hoan, gã ngâm kệ xin phép ngài ra đi:
26. Thần đã cùng con trẻ bắt hươu,
Ngày xưa bôn tẩu chốn rừng sâu,
Bạn bè để lại nhà không biết,
Sống chết thần nay hiện ở đâu.
27. Đại-trí Dạt-ta, thần muốn đi,
Hỡi ngài Minh chúa tộc Kà-si,
Chúng thần cất bước thăm lần nữa,
Quyến thuộc thân bằng ở chốn quê.
Bồ-tát đáp:
28. Ta muốn các ngài ở chốn đây,
Cùng ta hưởng hạnh phúc bao ngày,
Nơi nào trên chốn nhân gian ấy,
Ngài thấy bình an giống cảnh này?
29. Nhưng nếu ngài mong ở chốn kia,
Thì ngài hãy hưởng lạc tràn trề,
Rồi sau sẽ giã từ đi nhé,
Hạnh phúc ngài mong gặp bạn bè.
Rồi ngài suy nghĩ: “Nếu gã nhờ ta mà có được hạnh phúc chắc gã sẽ không tiếc lộ ta với ai đâu, ta sẽ cho gã viên ngọc như ý (ban mọi điều ước). Ngài liền tặng gã viên ngọc rồi bảo:
30. Kẻ được mang viên bảo ngọc thần,
Ngắm đàn con cháu với gia trang,
La- môn, lấy ngọc và đi nhé,
Chẳng có bao giờ gặp bất an.
Gã Bà-la-môn đáp:
31. Hạ thần hiểu rõ những lời ngài,
Ngài thấy thần nay đã lão lai,
Thần sẽ đi theo đời khổ hạnh,
Nghĩa gì lạc thú ở trên đời?
Bồ-tát nói:
32. Nếu ngài chẳng giữ trọn lời thề,
Tìm thú thế nhân lần nữa kia,
Thì hãy đến tìm ta lại nhé,
Ta ban ngài lạc thú tràn trề.
Gã Bà-la-môn đáp:
33. Dat-ta Đại-trí, tạ muôn vàn,
Ân huệ mà ngài đã phát ban,
Ví thử thần tìm cơ hội tốt,
Sẽ về mong được hưởng hồng ân.
Bậc Đại Sĩ thấy rằng gã không còn muốn ở lại đây nữa, nên ngài ra lệnh bốn đồng tử Nàga dẫn gã trở lại cõi trần.
*
Bậc Đạo Sư tả mọi việc như sau:
34. Dat-ta Đại trí lệnh truyền ban,
Bốn tiểu long thần: -Hãy bước chân,
Đem vị La-môn ta uỷ thác,
Dẫn người trở lại chốn người mong.
35. Nghe lời xong, các vị long thần,
Lập tức lệnh ngài được phục tuân,
Họ dẫn Bà-la-môn đến chốn,
Rồi đi để lại gã đơn thân.
Trên đường về lão Bà-la-môn bảo con:
– Này Soma, ta sẽ giết được con nai chỗ này và con lợn chỗ kia.
Rồi thấy một hồ nước, gã kêu lên:
– Này Soma, xuống tắm đi.
Thế là cả hai cha con cởi hết áo quần thần tiên ra cuộn thành một bó đặt trên bờ, xuống hồ tắm. Lập tức áo quần biến mất về cảnh giới Nàga chỉ còn bộ áo quần nghèo khổ màu vàng xưa kia của họ mang lên người cùng với cung tên giáo hiện ra như ngày xưa ấy.
– Cha ơi, cơ nghiệp tiêu tan hết rồi. Somadatta kêu gào lên thế.
Nhưng cha cậu vội an ủi:
– Đừng lo gì, hễ còn hươu nai trong rừng là ta còn có kế sinh nhai.
Mẹ Somadatta nghe họ về, vội chạy ra đón vào nhà, thiết đãi cơm rượu thỏa thuê. Khi gã Bà-la-môn đã ăn xong và đi ngủ, người mẹ hỏi con:
– Lâu nay hai cha con đi đâu thế?
– Thưa mẹ, cha con và con được vua Nàga là Bhuridatta mang đến xứ Nàga thần tiên, nhưng vẫn không toại nguyện nên nay lại trở về.
– Thế con có mang về được món châu báu nào không?
– Thưa mẹ không.
– Thế vị vua đó không cho con món châu báu nào sao?
– Thưa mẹ, vua Bhùridatta đã tặng cho cha con một viên ngọc ban mọi điều ước, nhưng cha con từ chối.
– Vì cớ sao?
– Cha con bảo là muốn làm ẩn sĩ tu hành.
– Sao lâu nay đã vứt lại cho ta cả một gánh nặng con cái và đi ở xứ Nàga, bây giờ lão đòi làm ẩn sĩ à?
Thế là bà nổi cơn thịnh nộ, đập vào lưng gã bằng chiếc thìa lâu nay vẫn dùng nó chiên cơm rồi mắng gã xối xả:
– Ông thật là thứ Bà-la-môn ác độc, tại sao ông bảo là sắp đi tu làm ẩn sĩ và từ chối báu vật? Rồi tại sao ông còn vát mặt về nhà mà không thực hiện nguyện ước tu hành? Hãy cút ra khỏi nhà ta ngay.
Nhưng gã bảo vợ:
– Này hiền thê, xin nàng chớ vội thịnh nộ, hễ còn hươu nai trong rừng là ta còn cấp dưỡng mẹ con nàng.
Thế là ngày hôm sau, gã cùng con trai vào rừng tiếp tục sinh nhai bằng nghề cũ.
IV.- VIÊN NGỌC THẦN VÀ GÃ BẮT RẮN
Lúc bấy giờ có một con chim Kim sí điểu (chim thần cánh vàng) Garula sống trong cây bông vải trong vùng núi Himavat (Tuyết Sơn) gần đại dương miền Nam, bay lượn trên mặt nước rồi sà xuống vùng núi Himavat chụp lấy đầu của một chúa rồng Nàga. Đây là thời kỳ chim Garula chưa biết cách bắt rồng Nàga (chúng đã biết cách bắt rồng này trong chuyện Tiền thân Pandara, số 518). Vì thế, dù đã chụp được đầu rồng mà không làm bắn nước tung tóe, nó lại mang rồng tòn teng đến đỉnh núi Himavat.
Một Bà-la-môn trước đây là dân xứ Kà-si, sống ẩn dật trên núi này trong một chòi lá, và cuối lối đi có mái che là một cây đa lớn nên ban ngày ông vẫn cư ngụ dưới gốc cây. Chim Garula mang rồng Nàga đến ngọn cây đa, và rồng Nàga cố thoát ra, nên cuộn đuôi quanh một cành.Chim Garula không biết việc này, lấy toàn lực bay vụt lên trời mang theo luôn cây đa bật khỏi gốc. Chim thần mang rồng Nàga đến cây bông vải, dùng mỏ phanh bụng rồng ra, ăn hết mỡ, rồi ném xác xuống biển.
Cây đa rớt xuống đánh ầm, chim thần không biết gì vì sao có tiếng động lớn như vậy, liền nhìn xuống, thấy cây đa, nó tự hỏi: “Cây này ta mang từ đâu lại?” Rồi nhận ra đó là cây đa ở cuối lối đi có mái che của ẩn sĩ kia, nó suy nghĩ: “Cây đa rất ích lợi cho vị ấy, không biết có tai họa giáng xuống cho ta chăng? Ta thử đi hỏi ông xem sao”.
Rồi nó giả dạng làm một tiểu sinh đến gặp ẩn sĩ trong lúc ông đang đập đất cho bằng phẳng lại. Thế là vương điểu đảnh lễ ẩn sĩ xong, ngồi qua một bên, hỏi thăm sự tình như thể nó không biết gì những việc đã xảy ra:
– Cây gì đã mọc chỗ ấy?
Vị ẩn sĩ đáp:
– Một con chim Garula mang một con rồng Nàga đi ăn thịt, con rồng quấn đuôi quanh một cành cây để cố trốn thoát, nhưng con chim mạnh quá bay vút lên không làm cây bật gốc theo và đây là nơi cây đã bật ra.
– Thế con chim mắc phải tội gì?
-`Nếu nó không biết việc nó làm, thì đó chỉ là vô ý thức, không phải tội lỗi.
– Thế còn trường hợp của rồng Nàga thì sao?
– Nó không cuộn vào cây với ý định làm hư hại cây, cho nên nó cũng không có tội.
Chim chúa Garula hài lòng với lời giải thích của ẩn sĩ liền nói:
– Này hiền hữu, ta chính là vương điểu Garula, ta rất hài lòng với lời giải thích vấn đề của ông. Nay ông sống trong rừng này và ta lại biết thần chú Àlambàyana quý vô giá. Ta sẽ tặng nó cho ông để đền đáp công ơn ông đã giải thích cho ta, mong ông nhận nó.
– Ta cũng đã biết nhiều thần chú lắm, hiền hữu cứ an tâm ra đi.
Nhưng chim chúa cứ nài ép mãi cuối cùng cũng năn nỉ được vị ẩn sĩ nhận lời, nên nó trao bùa và chỉ những dược thảo cần thiết rồi tạ từ.
Lúc bấy giờ ở Ba-la-nại có một Bà-la-môn nghèo khổ nợ nần tứ tung và bị các chủ nợ giày vò mãi, gã tự nhủ: “Sao ta lại cứ sống mãi như thế này? Ta thà vào rừng mà chết còn hơn”. Thế là gã bỏ nhà đi nhiều chuyến phiêu bạt vào rừng cho đến khi gã thấy lều ẩn sĩ. Gã vào xin ở lại và được ẩn sĩ vui lòng nhận vì gã siêng năng làm mọi phận sự. Vị ẩn sĩ tự nhủ: “Gã Bà-la-môn này giúp đỡ ta rất nhiều, vậy ta sẽ cho gã chú thiêng mà chim chúa đã cho ta”.
Vì thế ông bảo gã:
– Này hiền hữu Bà-la-môn, ta biết thần chú Àlambàyana, ta sẽ cho ông, mong ông nhận lấy.
Gã đáp:
– Hiền hữu hãy an tâm, ta chẳng cần bùa chú gì cả.
Nhưng vị ẩn sĩ nài ép mãi, cuối cùng cũng thuyết phục gã kia lấy bùa, rồi chỉ bảo cho gã những loại cây thuốc cần thiết và mọi cách sử dụng bùa.
Gã Bà-la-môn tự nhủ: “Ta đã có kế sinh nhai rồi”. Thế là sau khi ở lại thêm vài ngày, gã lấy cớ bị chứng phong thấp và sau khi xin vị ẩn sĩ thứ lỗi, gã kính cẩn từ giã và đi khỏi khu rừng, qua nhiều chặn đường, gã đến bờ sông Yamunà, đi dọc theo đường cái, miệng lầm thầm câu thần chú.
Ngay lúc bấy giờ cả ngàn tiểu đồng Nàga, vốn là thị giả của Bhruridatta đang mang viên bảo châu như ý ấy. Họ đã ra khỏi cảnh giới Nàga, ngồi nghỉ chân và đặt bảo ngọc trên một đụn cát, rồi sau khi nô đùa suốt đêm dưới làn nước nhờ ánh sáng tỏa ra từ viên bảo châu ấy, họ mang hết mọi món trang sức lên mình lúc trời mới tảng sáng, thâu hào quang của bảo châu lại và ngồi canh chừng.
Gã Bà-la-môn đến đó ngay lúc gã đang lầm thầm câu thần chú, đám tiểu đồng nghe thần chú hoảng sợ vì tưởng đó là vương điểu Garula, liền độn thổ về cảnh giới Nàga mà quên lấy viên bảo ngọc. Gã Bà-la-môn thấy bảo ngọc liền kêu to:
– Thần chú của ta đã linh nghiệm tức thì.
Gã vui mừng lượm bảo ngọc ra đi. Ngay lúc ấy gã Bà-la-môn hạ đẳng đang cùng con săn nai, chợt thấy viên bảo ngọc trong tay gã kia, liền bảo con:
– Đó phải chăng chính là viên bảo ngọc mà Bhùridatta cho ta?
Người con đáp:
– Vâng, chính phải.
– Được thế thì ta sẽ nói cho gã kia biết những tính tai hại của viên ngọc rồi đánh lừa gã để dành viên ngọc cho ta.
– Thưa cha, trước kia cha đã không lấy viên bảo ngọc khi vua Bhùridatta tặng cha, nay vị Bà-la-môn này chắc chắn sẽ dối gạt được cha cho mà xem. Cha nên yên lặng thì hơn.
– Cứ thế, con sẽ thấy ai dối gạt được ai hay nhất, gã ấy hay cha.
Rồi gã tiến đến gần Àlambàyana và bảo gã kia:
36. Từ đâu ông có bảo châu này,
Mang hạnh phúc nhiều, đẹp mắt thay,
Song có bức tường chi triệu đấy,
Là điều ta đã nhận ra ngay.
Àlambàyana đáp vần kệ sau:
37. Sáng nay ta rảo bước trên đưởng,
Ta thấy ngọc ngay chỗ nó nằm,
Vệ sĩ mắt hồng ngàn đứa chạy,
Để cho ta được miếng mồi ngon.
Gã Bà-la-môn hạ đẳng muốn đánh lừa gã kia, liền nói thêm ba vần kệ kể những tai hại của viên bảo ngọc, vì muốn dành phần cho mình:
38. Nếu được nâng niu, quý trọng nhiều,
Để dành cẩn thận, hoặc thường đeo,
Ngọc làm toại nguyện cho người chủ,
Dù lớn bao nhiêu đủ mọi điều.
39. Nhưng nếu tỏ bất kính ngọc thần,
Người đeo hoặc giữ chẳng quan tâm,
Thì người sẽ phải ăn năn mãi,
Ngọc chỉ mang cho nỗi khốn cùng.
40. Nay ông chẳng có việc cần dùng,
Cũng chẳng có tài giữ bảo châu,
Vậy hãy đưa ta và đổi lấy,
Vàng ròng đây chẵn một trăm cân.
Àlambàyana liền đáp kệ:
41. Ta sẽ không đem bán bảo châu,
Dù bò hay ngọc quý ông trao,
Các điềm của nó ta tường tận,
Nó chẳng bao giờ bán được đâu.
Gã Bà-la-môn nói:
42. Nếu ngọc hay bò chẳng thể mua,
Ngọc kia ông có được bây giờ,
Giá nào ông bán ra viên ngọc,
Hãy nói ta nghe rõ thật thà.
Àlambàyana đáp:
43. Ai bảo cho ta biết chốn nào,
Tìm ra rồng chúa đại anh hào,
Ta cho người ấy ngay viên ngọc,
Tỏa sáng bốn bề rực rỡ sao!
Gã Bà-la-môn hỏi :
44. Có lẽ nào đây chính Điểu vương,
Hôm này giả dạng Bà-la-môn,
Đi tìm dấu vết săn mồi thịt,
Để bắt Long vương lấy món ngon?
Àlambàyana đáp:
45. Ta quả thật không phải Điểu vương,
Mắt ta chẳng thấy bóng chim thần,
Danh y, Đạo Sĩ là ta đấy,
Nọc rắn rồng là việc sở trường.
Gã Bà-la-môn nói:
46. Phải chăng ông có lực thần nào,
Hay đã học hành kỹ thuật cao,
Việc ấy khiến ông không nhiễm độc,
Khi cầm nọc rắn giết người sao?
Gã đáp, miêu tả năng lực của mình như sau:
47. Ko-sy ẩn sĩ chốn rừng hoang,
Khổ hạnh dài lâu giữ vững vàng,
Chim chúa sau cùng đem tiết lộ,
Cho ngài bùa chú bắt Long thần.
48. Bậc Thánh tối cao sống ẩn thân,
Trên sườn núi nọ thật cô đơn,
Nhiệt tình hầu hạ ngài, ta đã,
Phụng sự ngày đêm chẳng nhọc nhằn.
49. Vì vậy, cuối cùng để thưởng công,
Cho ta hầu hạ những năm ròng,
Đạo Sư khả kính ta tôn quý,
Tiết lộ cho ta mật chú thần.
50. Tin vào chú thuật vạn quyền năng,
Ta chẳng sợ rồng rắn cực hung,
Những nọc giết người, ta giải hết,
Ta là bậc trí giả À-lam.
Trong khi nghe gã này nói, gã Bà-la-môn hạ đẳng kia nghĩ thầm: “Gã Àlambàyana này sẵn sàng trao bảo ngọc cho kẻ nào chỉ chỗ chúa rồng Nàga, vậy ta chỉ chỗ của Long vương Bhùridatta cho gã rồi lấy bảo ngọc”. Thế là gã ngâm kệ hỏi ý kiến con trai:
51. Con hỡi, ta tranh lấy bảo châu,
So-ma, ta hãy vội đi mau,
Đừng làm lỡ vận như người dại,
Đập dĩa cơm bằng gậy bấy lâu.
Somadatta đáp:
52. Mọi hiển vinh ngài đã phát ban,
Khi cha đi đến ở tha phương,
Nay cha trở mặt và ăn cướp,
Như vậy là đền nghĩa đáp ân?
53. Vì dù cha muốn được giàu sang,
Đi tìm như trước ở Long vương,
Xin ngài, ngài sẽ vui lòng tặng,
Mọi thứ cha mong ước thỏa lòng.
Gã Bà-la-môn đáp:
54. Những thứ được do bởi vận may,
Chén cơm nằm sẵn ở trong tay,
Ăn ngay đừng hỏi gì thêm nữa,
Con sẽ mất phần tặng thưởng này.
Somadatta nói:
55. Đất này đang há miệng chờ trông,
Lửa địa ngục nung nấu cực nồng,
Chờ đợi sau cùng người phản bội,
Hay cơn đói lã xé tan lòng,
Sống tàn, chết dở, con người ấy,
Kẻ dối lừa ngay bạn chí thân.
56. Hãy cầu bậc Đại trí Dat-ta,
Nếu muốn giàu sang, ngài sẽ cho,
Điều nguyện ước hằng mong thỏa mãn,
Song cha gây tội lỗi này ra,
Con e tội ấy không lâu sẽ,
Phát lộ cha ngay, thật đấy mà.
Gã Bà-la-môn đáp:
57. Song nhờ tế lễ thật cao sang.
Tội ác La-môn có thể mang,
Tuy thế, về sau đều rửa sạch,
Chúng ta dâng đại lễ đăng đàn,
Như vầy sẽ được làm thanh tịnh,
Giải thoát tội kia thật dễ dàng!
Somadatta nói:
58. Cha hãy ngưng lời nói xấu xa,
Con không ở lại nữa bây giờ,
Lúc này chính lúc con từ biệt,
Con chẳng cùng cha bước nữa mà,
Vì sự đê hèn này cấu xé,
Đang làm thối nát trái tim cha.
Nói xong chàng trai hiền đức kia bác bỏ lời cha dụ dỗ, thét vang lên bằng giọng sang sảng làm chấn động cả chư thần quanh vùng ấy:
– Ta không thể đồng hành với một kẻ tội lỗi như thế được.
Rồi chàng bỏ đi ngay trong khi người cha đứng lặng nhìn theo, sau đó chàng đi sâu vào rừng núi Himavat, trở thành một ẩn sĩ, tu tập rồi chứng đắc các Thắng trí cùng các Thiền chứng, sau được sinh lên Phạm thiên giới.
*
Gã hạ đẳng Bà-la-môn nghĩ thầm: “Soma đi đâu nếu không phải là về nhà?”. Rồi khi thấy Àlambàyana hơi phật ý, gã vội bảo:
– Này Àlambàyana đừng ngại gì, ta sẽ đưa ông đến chỗ Bhùridatta Long vương.
Thế là gã đem Àlambàyana đến nơi chúa rồng đang trì giới và khi gã thấy ngài đang nằm cuộn tròn trên tổ kiến đầu thu lại, gã đứng tránh sang một bên, đưa tay chỉ ngài và đọc kệ sau:
60. Bắt chúa rồng nơi chốn nó nằm,
Chụp ngay viên ngọc quý muôn vàn,
Hào quang đỏ rực màu tươi sáng,
Như mão miệng trên chóp phượng hoàng.
61. Hãy nhìn tổ kiến ở đằng xa,
Rồng chúa nằm kia, trải rộng ra,
Không có ý gì lo sợ cả,
Giăng mình như một đống bông tơ;
Nơi kia bắt lấy ngay rồng ấy,
Trước lúc nó hay bạn đến mà.
Bậc Đại Sĩ mở mắt ra nhìn gã hạ đẳng kia, ngài suy nghĩ: “Ta đã đem gã ấy đến cung thất Nàga rồi cho gã hưởng vinh hoa tột bực, nhưng gã không nhận viên bảo ngọc ta ban cho, thế mà giờ đây gã trở lại với người bắt rắn. Tuy nhiên nếu ta phẫn nộ gã vì việc làm phản trắc này thì công đức của ta bị suy giảm. Giờ đây bổn phận tối cao của ta là giữ ngày trai giới đủ bốn phép, không được vi phạm cho nên ví dù gã Àlambàyana kia có phân thân ta ra từng mảnh hay đem ta nấu chín hoặc lấy xiêng đâm ta và nướng đi ta cũng không được căm hận gã về mọi việc ấy”.
Thế rồi ngài nhắm mắt lại, quyết giữ nhất tâm cao độ, ngài đặt đầu giữa đám mào rồi nằm hoàn toàn bất động.
V.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA BỊ BẮT
Lúc ấy gã Bà-la-môn hạ đẳng kia kêu lên:
– Này Àlambàyana, ông hãy bắt rồng Nàga này ngay rồi trao viên ngọc cho ta.
Gã Àlambàyana quá sung sướng khi nhìn thấy rồng chúa Nàga, nên không chút lưu tâm đến viên bảo ngọc nữa, gã ném ngọc vào tay gã kia bảo:
– Này hiền hữu Bà-la-môn, lấy ngọc đi.
Nhưng viên ngọc tuột ra khỏi tay gã và khi vừa rớt xuống đất liền biến mất vào cảnh giới Nàga. Gã Bà-la-môn thấy mình mất hết cả ba thứ: viên bảo châu, tình thân hữu của Bhùridatta và cả con trai nữa và gã vừa đi về nhà vừa lớn tiếng khóc than:
– Ta mất hết cả rồi, ta đã không nghe lời con ta.
Còn gã Àlambàyana trước hết bôi khắp thân mình gã các loại thuốc thần, ăn uống lấy sức rồi đọc thần chú và đến cạnh Bồ-tát, nắm lấy đuôi thật chặt, mở miệng ngài ra, phun vào một viên thuốc mà gã đã ngậm sẵn.
Rồng chúa Nàga bản tính thuần tịnh không để cho mình nổi sân hận vì sợ vi phạm giới luật công hạnh, nên mặc dù ngài mở mắt, ngài không giương to mắt ra.
Sau khi gã nhét đầy thuốc thần vào miệng chúa trồng, gã nắm đuôi rồng, đầu dốc ngược, lắt mạnh cho rồng phun những thức ăn đã nuốt vào, gã căng rồng nằm dài trên mặt đất, rồi lấy tay đè mạnh thân rồng như thể đè chiếc gối, gã chà sát cả bộ xương ngài, nắm đuôi, nện ngài như thể đập tấm vải. Bậc Đại Sĩ không phẫn nộ mặc dù ngài đang chịu đau đớn như vậy.
*
Bậc Đạo Sư tả việc này qua kệ sau:
62. Nhờ các thuốc men đủ lực thần,
Đọc thần chú có ác công năng,
Gã cầm rồng chúa không kinh hãi,
Và bắt buộc ngài phải phục tuân.
*
Sau khi làm bậc Đại Sĩ tơi tả như vậy, gã sửa soạn một cái giỏ đựng cây leo bỏ ngài vào, lúc đầu thân mình đồ sộ của ngài không vào lọt trong giỏ, nhưng sau khi đá vài cái, gã cố nhét ngài vào. Rồi đến một làng kia, gã đặt giỏ giữa làng rao to:
– Ai muốn xem rồng chúa thì ra mà xem.
Cả làng đổ xô ra vây quanh. Gã liền gọi chúa Nàga ra. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: “Tốt hơn hết là ta nên múa để làm hài lòng dân chúng hôm nay, có lẽ gã kiếm được nhiều tiền sẽ thả ta ra; thôi gã bảo ta làm gì ta cũng làm cả”. Thế là khi gã Àlambàyana đem ngài ra khỏi giỏ, bảo ngài phình ra, ngài liền phình lớn thân, khi gã bảo ngài thu nhỏ hay cuộn tròn thành một đống như mô đất, hoặc hiện ra một mào, hai mào, hay ba, bốn, năm, mười, hai mươi hoặc cả trăm mào, hoặc hiện mình cao thấp, hữu hình, vô hình, hoặc biến thành xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, hoặc phun nước hay phun khói cùng nước, ngài điều hiện đủ mọi hình dáng như gã ra lệnh và biểu diễn đủ tài nhảy múa.
Người đứng xem không ai cầm được nước mắt và dân chúng đem tiền, vàng bạc, áo quần, đồ trang sức đủ loại như thế, nên chỉ trong làng ấy gã đã kiếm được cả trăm ngàn đồng tiền.
Lúc bấy giờ, thoạt đầu mới bắt được bậc Đại Sĩ, gã có ý định thả ngài ra sau khi đã kiếm được một ngàn đồng tiền, nhưng khi đã kiếm được nhiều như thế, gã lại nói:
– Chỉ trong một ngôi làng nhỏ mà ta đã kiếm được chừng này huống hồ đến một kinh thành ta còn kiếm được bao nhiêu nữa.
Thế là sau khi để gia quyến ở lại đó, gã trang hoàng một cái giỏ bằng ngọc vàng thật đẹp, ném bậc Đại Sĩ vào trong, gã lên một chiếc xe ngựa sang trọng cùng một đoàn tuy tùng rầm rộ. Cứ đến mỗi làng mạc, thị trấn, gã đều bắt ngài nhảy múa, sau cùng họ đến thành Ba-la-nại. Gã cho rồng chúa ăn mật và hạt ngũ cốc rang, lại giết ếch nhái cho ngài ăn, nhưng ngài không ăn, vì sợ gã không chịu thả ngài ra. Nhưng dù ngài không ăn gì, gã vẫn bắt ngài diễn trò, bắt đầu tại bốn làng gần cổng thành, họ ở lại cả tháng ròng.
Rồi vào ngày rằm trai giới, gã tâu trình vua rằng gã sẽ cho biểu diễn tài múa rồng hầu vua ngự lãm. Vì thế vua ban lệnh bằng một hồi trống cho dân chúng tụ tập lại đông đủ và những tầng ghế sân khấu được dựng lên trước sân chầu.
VI.- BẬC ĐẠI TRÍ DATTA ĐƯỢC GIẢI CỨU
Nhưng vào ngày Bồ-tát bị Àlambàyana bắt, mẹ của Bồ-tát nằm mơ thấy một người da đen mắt đỏ vung kiếm cắt tay bà mang đi, máu chảy ròng ròng. Bà kinh hoàng tỉnh giấc, sờ tay phải mới biết mình nằm mơ. Rồi bà suy nghĩ: “Ta đã thấy một giấc mơ hãi hùng, nó báo trước một tai họa nào đó sắp xảy ra hoặc cho bốn con ta, hoặc Đại vương Dhurì-datta, hoặc cho chính ta”.
Nhưng lập tức bà liên tưởng ngay đến Bồ-tát: “Hiện nay tất cả các con đều ở cảnh giới Nàga trừ Bhùridatta lên cõi nhân gian quyết tâm hành trì giới luật với lời nguyện giữ ngày trai giới, nên ta lo lắng không biết có kẻ bắt rắn hay chim Garula nào bắt con ta chăng”.
Bà cứ băn khoăn mãi về ngài như thế, cuối cùng sau nửa tháng bà hết sức u sầu, tự nhủ: “Con ta không thể nào sống xa ta trong nửa tháng được, chắc có tai nạn gì xảy ra cho con ta rồi”. Một tháng trôi qua không biết bao nhiêu lệ sầu đã tuôn ra từ mắt bà trong cơn đau buồn ấy, bà cứ ngồi nhìn con đường ngài thường trở về nhà, nói không ngớt:
– Chắc chắn bây giờ con ta phải về nhà, chắc chắn bây giờ con ta phải về nhà. Lúc ấy thái tử Sudassana cùng một đám tùy tùng đông đảo đến yết kiến phụ vương và mẫu hậu sau một tháng xa cách. Sau khi để đám tùy tùng đứng ngoài điện, chàng bước lên nội cung đảnh lễ mẹ xong, đứng sang một bên nhưng vì đang lo buồn chuyện Bhùridatta, bà không nói với chàng một lời nào cả. Chàng nghĩ thầm: “Bất cứ khi nào ta về thăm mẹ trước kia, mẹ ta đều vui mừng tiếp đón ân cần niềm nở, thế sao hôm nay mẹ ta lại buồn thảm quá như vậy, vì cớ gì?”
Thế là chàng hỏi mẹ:
63. Mẹ thấy con về, đủ chiến công,
Mọi đều ước nguyện đã vuông tròn,
Tuy nhiên chẳng tỏ bày vui vẻ,
Khuôn mặt mẹ đầy vẻ tối sầm.
64. Như hoa sen được hái thô sơ,
Rũ xuống trong tay, chóng héo khô,
Có phải đây là cách mẹ đón,
Khi con trở lại tự phương xa?
Chàng ngâm kệ khác hỏi mẹ thêm:
65. Có kẻ nào la mắng mẹ không,
Hay là mẹ khổ não trong lòng,
Khiến cho mẹ mặt mày u ám,
Khi mẹ thấy con trở lại chăng?
Bà mẹ đáp như sau:
66. Mẹ đã thấy cơn ác mộng vầy:
Cách đây một tháng đúng hôm nay,
Một người đến cắt lìa tay phải,
Khi mẹ nằm sàng tọa ngủ say,
Rồi nó kéo đi tay vấy máu,
Lệ ta chẳng cản được người này.
67. Tràn ngập lòng ta nỗi hãi hùng,
Từ khi thấy cảnh tượng hung tàn,
Đêm ngày ta chẳng hề hay biết,
Một phút mừng vui hoặc lạc an.
Nói xong bà lớn tiếng khóc than:
– Ta không biết con yêu quý của ta giờ đây ở đâu, chắc lại có tai họa gì xảy ra cho em con rồi.
Và bà nói to lên:
68. Vương nhi, bao mỹ nữ thanh xuân,
Ngày trước thường kiêu hãnh kế gần,
Trang điểm lưới vàng, tóc óng ả,
Dat-ta con hỡi, vắng Long quân!
69. Quanh chàng bao chiến sĩ oai hùng,
Lẫm liệt tuốt gươm, đám hạ thần,
Như khóm Ka-ni hoa chói sáng,
Ôi! Ta tìm kiếm đã hoài công!
70. Ta phải đi theo dấu vết chân,
Tìm nơi chàng đã định nương thân,
Hoàn thành nguyện ước đời tu sĩ,
Và tự biết chàng có vạn an.
Nói xong bà cùng đám thị vệ của chàng và các cung nữ của bà đi ra ngoài.
Lúc bấy giờ các vương phi của Bồ-tát chưa biết lo âu khi họ không thấy ngài trên tổ kiến, vì họ bảo là ngài chắc chắn đã đi về cung thăm mẹ, nhưng khi được tin bà đang khóc lóc vì không thấy con đâu, họ đều chạy ra đón bà và quỳ xuống chân bà đồng lớn tiếng kêu than:
– Ôi mẫu hậu, cả tháng này chúng thần thiếp chưa gặp đức phu quân.
*
Bậc Đạo Sư tả lại cảnh ấy như sau:
71. Các vương phi của vị Long vương,
Nhìn mẫu hậu đang bước đến gần,
Họ khóc than vô cùng thảm thiết,
Và dang tay trước mặt bà hoàng:
72. “Long quân, bậc Đại trí Dat-ta,
Đi vắng nơi đâu một tháng qua,
Sống thác, chúng thần không thể biết,
Trong lòng tuyệt vọng, nói sao giờ?”
*
Mẫu hậu cùng các vương phi than khóc ở giữa đường, rồi cùng nhau bước vào cung; nỗi sầu khổ của bà tuôn ra không nguôi được khi bà nhìn thấy tọa sàng của con.
73. Giống như chim mẹ quá đơn côi,
Nhìn tổ vắng, con bị giết rồi,
Cũng vậy, sầu dâng tràn dạ mẹ,
Khi tìm con trẻ đã hoài hơi.
74. Thẳm sâu trong dạ, nỗi sầu bi,
Thiêu đốt bừng lên ngọn lửa kia,
Như thể lò rèn mà chú thợ,
Mang theo nơi gã được mời đi.
Trong lúc bà than khóc như vậy,cung thất của Bhùridatta như vang dội một âm hưởng dài lê thê khác nào tiếng sóng gầm vi vu của biển cả. Không một ai khỏi xúc động và cả cung thất như rừng cây Sàla bị rung chuyển trong cơn bão táp của ngày tận thế.
*
Bậc Đạo Sư tả quang cảnh như sau:
75. Như Sà-la ngã dưới cơn dông,
Cành lá gãy lìa, rễ bật tung,
Cũng vậy, vợ con và mẹ nữa,
Nằm trong nhà vắng vẻ tang hoang.
*
Các hoàng huynh Aritha và Subhaga đến yết kiến mẹ, nghe tiếng ồn ào vội chạy vào cung hết sức trấn an mẫu thân:
*
Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:
76. A-rit-tha với Su-bha-ga,
Nôn nóng đến an ủi mẹ già,
Nghe tiếng khóc than rền thảm thiết,
Trong nhà bậc Đại trí Dat-ta:
77. – Xin mẹ an lòng, dứt khóc than,
Đây là số phận của trần gian,
Mọi loài đều phải qua sinh tử,
Quy luật vô thường vạn vật mang.
Samuddajà, mẫu hậu đáp:
78. Con ơi, mẹ biết luật rành rành,
Đây số phận muôn loại chúng sinh,
Nhưng mẹ mất con không hợp lý,
Bơ vơ, mẹ chỉ biết buồn tênh.
79. Quả thật, nếu không thấy được con,
Bảo châu đem hỷ lạc tâm hồn,
Dat-ta Đại trí, thì ta sẽ,
Kết liễu đêm nay cuộc sống buồn!
Các vương tử vội bảo:
80. Đừng quá sầu bi, hỡi mẹ hiền,
Hãy làm dịu bớt nỗi u phiền,
Chúng con sẽ đón về vương đệ;
Xuyên suốt qua toàn cõi đất liền,
Ở khắp mọi nơi và mọi hướng,
Chúng con theo dõi vết chân em.
81. Băng qua đồi núi hoặc đồng bằng,
Thị trấn, và khắp các xóm làng,
Cho đến khi tìm ra tiểu đệ,
Chỉ trong độ khoảng mươi ngày đàng,
Chúng con xin hứa cùng hiền mẫu,
Đem tiểu đệ về được vạn an.
Lúc đó Sudassana suy nghĩ: “Nếu cả ba anh em ta cùng đi về một hướng e rằng chậm trễ mất, vậy chúng ta phải đi về ba xứ khác nhau: Một em lên cõi Thiên thần, một em đến núi Himavat, một em nữa lên cõi nhân gian, em ta sẽ đốt hết làng xóm, thị trấn nào mà em ta tìm ra được Bhùridatta vì em ta là bản tính độc ác, không nên để em ta lên đó”.
Thế là chàng bảo em:
– Vương đệ, hãy lên cõi Thiên thần, xem có phải chăng Thiên chủ triệu vương đệ Bhùridatta để thuyết Pháp cho các ngài, thì hãy đưa vương đệ trở về .
Chàng lại bảo Subhaga:
– Hãy lên núi Himavat tìm Bhùridatta trong cả năm con sông và đem về đây.
Còn chàng quyết định phần mình lên cõi nhân gian. Chàng suy nghĩ: “Nếu ta giả dạng kim đồng, dân chúng sẽ phỉ báng ta, thôi ta phải giả dạng một ẩn sĩ, vì các vị khổ hạnh thường được người đời quý trọng niềm nở chào đón”. Thế là chàng cải trang làm một vị ẩn sĩ khổ hạnh, từ giã mẹ ra đi.
Lúc bấy giờ Bồ-tát có một cô em gái khác mẹ, tên gọi Accimukhì, rất yêu thương Bồ-tát. Khi nàng thấy Sudassana ra đi, nàng bảo:
– Vương huynh ôi, em rất lo ngại, cho em đi với.
Chàng đáp:
– Hiền muội, hiền muội không thể đi với ta được vì ta đã cải trang làm ẩn sĩ rồi.
– Thế thì tiểu muội xin biến thành con ếch nhỏ đậu trên đám tóc bện lại của vương huynh.
Chàng ưng thuận, thế là nàng biến thành nhái con nằm trong đám tóc bện lại của chàng. Sudassana quyết đi tìm em ngay từ lúc bước khởi đầu, cho nên chàng hỏi vương phi xem vương đệ hành trì trai giới ở đâu để đi ngay đến đó. Khi chàng thấy vết máu ở nơi Bồ-tát bị Àlambàna bắt và nơi Àlambàna đã làm giỏ cây leo để đựng ngài, chàng chắc chắn rằng Bồ-tát đã bị người bắt rắn mang đi, nên lòng chàng nặng trĩu u sầu, mắt đẫm lệ đi theo dấu chân Àlambàna.
Khi chàng đến ngôi làng đầu tiên Bồ-tát biểu diễn tài múa, chàng hỏi dân chúng xem có phải một người bắt rắn đã diễn trò với một con rồng như vầy chăng.
– Đúng vậy, cách đây một tháng, Àlambàna đã diễn trò như vậy.
– Thế gã có kiếm được gì lợi chăng?
– Gã kiếm được một trăm ngàn đồng tiền chỉ nội nơi này.
– Thế bây giờ gã đi đâu?
– Gã đã đi đến làng nọ rồi.
Chàng lại ra đi, vừa đi vừa hỏi đường, cuối cùng chàng đến cung môn. Ngay lúc ấy Àlambàna đã đến nơi, tắm rửa, xức dầu thơm xong, mặc áo dài sang trọng, rồi bảo tên hầu mang giỏ đựng rồng được trang hoàng vàng ngọc ấy ra, dân chúng tụ tập rất đông, một chiếc cẩm đôn đặt sẵn dành cho vua và trong khi còn ở trong cung, vua đã truyền lệnh:
– Trẫm sắp ngự triều, hãy bảo Long vương diễn trò đi.
Lúc ấy gã Àlambàna đặt cái giỏ đính châu ngọc ấy trên một tấm thảm sặc sỡ đủ màu, ra dấu hiệu bảo:
– Rồng chúa, ra đây.
Sudassana đang đứng ở cạnh đám đông trong lúc bậc Đại Sĩ ngẩng đầu lên nhìn quanh dân chúng. Thời bấy giờ loài rồng Nàga nhìn đám người vây quanh vì hai lý do: Một là để xem có chim Garula nào, hay là có người diễn trò nào không. Nếu thấy chim Garula thì chúng sẽ không múa vì sợ hãi, còn nếu có người diễn trò nào thì chúng lại không múa vì hổ thẹn.
Trong lúc nhìn quanh như thế, bậc Đại Sĩ thấy anh mình trong đám đông, liền cố ngăn dòng lệ đang tràn ra mắt và bò ra khỏi giỏ, tiến đến anh mình. Đám đông thấy ngài đến gần, hoảng sợ bỏ chạy, chỉ còn lại một mình Sudassana, vì thế ngài đến gần anh, đặt đầu lên chân anh và khóc, Sudassana cũng khóc theo. Sau cùng bậc Đại Sĩ nín khóc và bò vào giỏ như cũ.
Àlambàna nhủ thầm: “Chắc rồng Nàga này đã cắn ẩn sĩ kia, vậy ta phải an ủi vị đó mới được”. Gã đến gần chàng và bảo:
82. Rồng vừa tuột khỏi bàn tay,
Chụp lấy chân ngài thật mạnh thay,
Nó cắn ngài chưa?Xin chớ sợ,
Không gì độc hại nọc rồng này.
Sudassana muốn nói chuyện với gã, vì vậy chàng đáp:
83. Rồng của ngài không thể hại ta,
Ta đây xứng hợp với rồng mà,
Hãy tìm khắp chốn, ngài không thấy,
Một kẻ nhử rồng rắn giống ta.
Àlambàna không biết chàng là ai, vì vậy gã nổi giận nói:
84. Gã này giả dạng Bà-la-môn,
Thử thách lão đòi chuyện thiệt hơn,
Tất cả đám đông nghe lão nói,
Xử cho hai phía thật công bằng.
Sudassana liền đáp kệ:
85. Vô địch của ta chính nhái con,
Rồng kia vô địch của tôn ông,
Hãy đem đánh cuộc năm ngàn chẵn,
Để bọn chúng ta trợ lực hùng.
Àlambàna bắt bẻ:
86. Ta giàu phương tiện thật cao sang,
Mạt vận ông quê kệch xó làng,
Ai người làm chứng phe ông đó,
Và số tiền đâu đặt xuống bàn?
87. Có phần bảo đảm của ta đây,
Tiền cuộc, nếu ta mất vận may,
Năm ngàn đồng sẽ nêu uy lực,
Việc thử thách kia, đáp ứng ngay.
Sudassana nghe vậy liền bảo:
– Nào ta thử trổ tài để được năm ngàn đồng tiền.
Và chàng không nao núng bước vào cung vua, yết kiến đức vua, tức là cửu phụ của chàng, và ngâm kệ:
88. Muôn tâu chúa thương, nghe lời thần,
Đừng bỏ dịp may, hưởng phước phần,
Mong Chúa thượng vì thần bảo chứng,
Đem ra đánh cuộc giá năm ngàn!
Vua nghĩ thầm: “Ẩn sĩ này đòi một số tiền quá lớn, thế là nghĩa gì?”.Vì thế ngài liền đáp:
89. Thân phụ ngài trao lại nợ đời,
Hay là món nợ của riêng ngài,
Khiến ngài phải đến đây đòi trẫm,
Một món nợ nghe thật lạ tai!
Sudassana ngâm hai vần kệ:
90. À-lam muốn cuộc với Long vương,
Đánh bại hạ thần lập chiến công,
Thần chỉ có đây con nhái bén,
Phá tan kiêu mạn Bà-la-môn.
91. Chúa thượng, xin ngài hãy giáng lâm,
Ngự du cùng với đám tùy tùng,
Và nhìn chiến cuộc nơi này nhé,
Đang đợi gã kia đấu với thần.
Vua ưng thuận ra đi cùng với ẩn sĩ. Khi Àlambàna thấy vua, gã liền nghĩ: “Ẩn sĩ này kéo được nhà vua vào phe mình, chắc phải là thân hữu của vương gia rồi”. Gã bỗng sinh ra sợ hãi, vội chạy theo chàng và nói:
92. Ta chẳng muốn đâu hạ nhục ngài,
Ta không một chút muốn khoe tài,
Nhưng ngài khinh thị rồng này quá,
Kiêu mạn sẽ làm thất bại thôi.
Sudassana đáp hai vần kệ:
93. Ta chẳng cầu mong hạ nhục ngươi,
Cũng không khinh kẻ muốn khoe tài,
Nhưng sao ngươi phỉnh phờ dân chúng,
Bằng loại rắn không giết hại ai?
94. Ví thử người ta biết tướng chân,
Như ta thấy nó rõ ràng ràng,
Nói gì đến chuyện vàng hay bạc,
Ngươi chỉ được ăn một bữa xoàng!
Àlambàna nổi giận đáp:
95. Nhà ngươi khất thực khoác da lừa,
Dơ bẩn và trông vẻ xác xơ,
Ngươi dám khinh khi rồng của lão,
Nói rồng không biết cắn bao giờ!
96. Đến đây và thử việc rồng làm,
Học hỏi bằng kinh nghiệm nếu cần,
Ta bảo đảm dù không độc hại,
Nọc rồng sẽ biến bạn thành than!
Sudassana liền ngâm kệ chế nhạo gã:
97. Chuột hay rắn nước cắn người nào,
Chọc giận nó phun nọc độc sao,
Rồng đỏ đầu này không có hại,
Nó không cắn, dẫu biết phun cao!
Àlambàna đáp hai vần kệ:
98. Ta đã được bao vị Thánh nhân,
Thực hành pháp khổ hạnh không ngừng,
Bảo người bố thí trong đời sống,
Sẽ đến cõi thiên lúc mạng chung.
99. Ta khuyên ngươi bố thí ngay liền,
Nếu thực ngươi còn chút của tiền,
Rồng sẽ biến ngươi thành cát bụi,
Ngươi không có thể sống lâu bền!
Sudassana lại nói:
100. Ta cũng nghe từ các Thánh nhân,
Người bố thí đến thiên cung,
Vậy mau bố thí khi còn sống,
Nếu có vật gì để phát phân.
101. Nhái của ta không phải loại thường,
Sẽ làm ngươi hạ giọng kiêu căng,
Là công chúa của Long vương đó,
Nàng ấy là bào muội chính tông,
Mồm của Ac-ci phun ngọn lửa,
Hơi nàng cực độc, tiếng vang lừng.
Rồi chàng đứng giữa đám đông gọi to:
– Này hiền muội Accimukhì, em hãy ra khỏi tóc ta và đứng trên tay ta.
Chàng đưa tay ra, và khi nàng nghe chàng bảo, liền thốt lên tiếng kêu ba lần như loài ếch nhái lúc còn nằm trên tóc chàng, rồi nàng nhảy ra vai chàng, phun ra ba giọt nọc độc trên lòng bàn tay chàng rồi trở lại mái tóc chàng như cũ. Sudassana đứng cầm nọc rắn ấy thốt lên ba lần:
– Xứ này sẽ bị thiêu rụi.
Âm vang rền khắp Ba-la-nại đến mười hai dặm đường. Vua hỏi vật gì có thể hủy được nọc này.
– Tâu Đại vương, thần chẳng thấy chỗ nào có thể thả nọc này xuống được.
– Đất này rộng lắm, cứ thả xuống đi.
– Không thể được.
Chàng đáp bằng vần kệ sau:
102. Nếu thần thả nó xuống đồng bằng,
Tâu Đại vương, nghe kỹ hạ thần,
Đám cỏ, cây leo và dược thảo,
Thảy đều tiêu diệt cháy khô cằn.
– Vậy thì hãy ném lên trời.
– Cũng không được.
Chàng đáp bằng vần kệ sau:
103. Nếu hạ thần nghe lệnh Đại vương,
Ném tung độc ấy giữa không gian,
Sẽ không mưa, tuyết trời rơi xuống,
Cho đến bảy năm phải lụi tàn.
– Vậy thì hãy ném xuống nước.
– Cũng không được.
Chàng đáp bằng vần kệ sau:
104. Nếu vào trong nước, nọc này rơi,
Tâu Đại vương, nghe kỹ mấy lời:
Tất cả cá, rùa đều phải chết,
Muôn loài thủy tộc sống ngoài khơi.
Vua kêu lên:
– Trẫm cũng chẳng biết làm sao nữa. Ngài hãy chỉ cho trẫm cách nào để đất nước khỏi bị tiêu diệt.
– Tâu Đại vương, xin cho đào ba hố liền nhau.
Vua ra lệnh làm ngay. Sudassana đổ đầy thuốc độc vào hố giữa, phân bò vào hố thứ hai, và thần dược vào hố thứ ba, rồi chàng thả nọc độc vào hố giữa, một ngọn lửa đầy khói bùng lên, lan qua hố phân bò, bùng lên lần nữa, rồi lan qua hố thuốc thần, thiêu rụi hết thuốc rồi mới tắt. Àlambàna đứng gần hố ấy, bị hơi nóng của nọc độc bắt phải, màu da liền biến dạng và gã thành tên hủi trắng.
Gã kinh hoàng la lên ba lần:
– Ta sẽ thả rồng chúa ra.
Nghe thế, Bồ-tát liền bước ra khỏi giỏ dát ngọc vàng ấy, hiện hình sáng lòa mang đầy châu ngọc, sừng sững uy nghi trong dáng điệu của Thiên chủ Indra (tức Sakka). Sudassana và Accmukhì đứng hai bên.
Lúc đó Sudassana hỏi vua:
– Đại vương có biết đây là dòng dõi nào chăng?
– Trẫm không được biết.
– Đại vương không biết chúng thần, nhưng Đại vương biết chuyện vua Kàsi gả công chúa Samuddàja cho rồng chúa Dhàtarattha chứ?
– Trẫm biết rõ lắm, đó là tiểu vương muội của trẫm.
– Chúng thần là con trai của công chúa ấy, Đại vương là cửu phụ (cậu) của chúng thần.
Thế rồi vua ôm lấy các cháu, hôn lên đầu và khóc, xong lại mang các cháu vào cung tiếp đãi rất trọng thể. Trong khi vua ân cần đón tiếp Bhùridatta, vua hỏi Bồ-tát bằng cách nào Àlambàna đã bắt ngài trong khi ngài có nọc thần vô địch như vậy. Sudassana liền kể hết đầu đuôi câu chuyện rồi bảo:
– Tâu Đại vương, một vị vua phải trị vì quốc độ như thế này.
Chàng liền thuyết Pháp cho vua, rồi chàng bảo:
– Tâu Cửu phụ, mẫu hậu đang héo mòn vì vắng bóng Bhùridatta, chúng tiểu điệt không dám ở lâu hơn nữa.
– Phải lắm, các hiền điệt cứ ra về, nhưng trẫm cũng muốn gặp vương muội, vậy làm cách nào?
– Tâu Cửu phụ, thế tổ phụ, Đại vương Kàsi, đâu rồi?
– Ngài không thể sống thiếu vương muội, nên ngài đã rời ngôi báu, đi làm ẩn sĩ, hiện đang sống trong rừng kia.
– Tâu cửu phụ, mẫu hậu cũng đang ao ước được gặp tổ phụ cùng cửu phụ, chúng tiểu điệt xin rước mẫu hậu đến lều ẩn sĩ của tổ phụ, lúc ấy cửu phụ sẽ gặp luôn mẫu hậu tại đó.
Thế là họ định ngày xong, và rời cung. Sau khi từ giã các cháu trai, vua khóc lóc trở vào; còn họ liền độn thổ ra đi về cảnh giới Nàga.
VII .- GÃ THỢ SĂN BỊ TRỪNG PHẠT
Khi bậc Đại Sĩ trở về với dân chúng như vậy, cả kinh thành đang rền vang những lời than khóc khắp nơi . Chính ngài cũng mệt mỏi vì cả tháng trời ở trong giỏ, nên đi nằm dưỡng bệnh, và thần dân Nàga tấp nập đến viếng thăm ngài đông vô số, khiến ngài lại mệt thêm vì phải chuyện trò cùng họ. Trong lúc ấy Kànàrittha lên thiên giới tìm không gặp bậc Đại Sĩ, là kẻ trở về đầu tiên, nên chàng được phân công làm thần canh cửa của bậc Đại Sĩ vì chàng được xem là kẻ tính tình nóng nảy có thể xua tan hết đám đông Nàga ấy.
Phần Subhàga, sau khi tìm khắp vùng núi Himavat (Tuyết Sơn), cả đại dương cùng các sông ngòi không gặp, liền phiêu bạt đến vùng sông Yamunà để tìm kiếm.
Lúc bấy giờ gã Bà-la-môn hạ đẳng thấy Àlambàna đã hóa thành người hủi, gã nghĩ thầm: “Gã ấy hóa hủi, chỉ vì quấy phá Bhùridatta; nay ta cũng vậy, chỉ vì ham ngọc báu mà phản bội ngài dù ngài là ân nhân của ta, tội này ta sẽ phải mang. Vậy trước khi họa đến, ta phải xuống dòng sông Yamunà rửa sạch tội trong chỗ tẩy uế linh thiêng này”.
Thế rồi gã xuống sông, tự cho là gã sẽ rửa sạch tội phản bội kia. Vừa lúc ấy Subhàga đến nơi, nghe gã nói, liền nghĩ thầm: “Gã khốn nạn tồi tệ này chỉ vì tham bảo ngọc mà phản bội anh ta, ngài đã ban cho gã mọi phú quý vinh hoa, ta không thể nào tha mạng gã được”. Vì vậy chàng cuộn đuôi quanh chân gã, kéo gã dìm xuống nước, đến khi gã ngạt thở, chàng để yên gã một lát; gã ngẩng đầu lên, chàng lại dìm xuống, nhiều lần như thế cho đến cuối cùng gã Bà-la-môn hạ đẳng kia ngẩng đầu lên bảo:
105. Ta đang tắm ở chốn thiêng này,
Dòng thánh Pa- yà linh hiển thay,
Chân cẳng ta trên đầy nước thánh,
Quỷ nào hút máu của ta đây?
Subhàga đáp lời gã qua vần kệ sau:
106. Chuyện kể ngày xưa có vị thần,
Đến Kà-si đất nước kiêu căng,
Long vương thật hiển vinh danh vọng,
Hùng dũng cuộn tròn khắp núi sông,
Ta chính con ngài đang chụp lão,
Tên Su-bha, hỡi Bà-la-môn.
Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Anh của rồng chúa Bhùridatta không muốn tha chết cho ta, nhưng ta thử làm động từ tâm của vị này bằng cách tán tụng phụ mẫu của họ, rồi xin tha mạng xem sao”. Thế là gã ngâm kệ sau:
107. Kà-si vương tử thật oai linh,
Mẫu hậu sinh dòng giống hiển linh,
Ngài chớ để nô tài hạ đẳng,
Chết chìm trong sóng nước vô tình.
Subhaga nghĩ thầm: “Gã Bà-la-môn độc ác này cố đánh lừa ta để ta xiêu lòng mà tha nó, nhưng ta chẳng tha nó đâu”. Thế là chàng đáp, nhắc lại các hành động của gã:
108. Một nai khát nước đến dòng sông,
Từ bụi cây, ngươi núp bắn cung,
Kinh hãi, đau thương nai chạy trốn,
Bỗng dưng tai họa giáng vào thân.
109. Người thấy trong rừng nai ngã ra,
Ngươi đem đòn gánh vác nai qua,
Đến cây đa mọc đầy cành lá,
Chằng chịt bao quanh gốc rễ cha.
110. Sơn ca trỗi khúc nhạc du dương,
Anh vũ trên cây nhảy rộn ràng,
Đất trải cỏ xanh như thảm lót,
Hoàng hôn mời nghỉ bước an nhàn.
111. Mắt ngươi độc ác thấy anh ta,
Đang ẩn mình trong đám lá đa,
Mang sắc áo hè tươi rực rỡ,
Vui đùa cùng với đám cung nga.
112. Hoan hỷ, anh ta chẳng hại ai,
Sao ngươi độc ác giết oan ngài,
Nạn nhân vô tội, nhìn đây nhé!
Tội ấy trên đầu ngươi tái lai.
Ta chẳng tha ngươi dù phút chốc,
Ngươi đành trả hận tối cao này.
Gã Bà-la-môn nghĩ thầm: “Vị này quyết không tha mạng ta, song ta phải tìm mọi cách thoát đi mới được”. Rồi gã ngâm kệ sau:
113. Học hành, cầu nguyện để cúng dâng,
Làm tế lễ trong ngọn lửa thần,
Ba việc khiến La-môn được sống,
Không ai xúc phạm dẫu hờn căm.
Subhaga nghe gã nói đâm ra do dự, chàng nghĩ thầm: “Ta sẽ mang nó về cảnh giới Nàga hỏi các vương huynh ra sao”. Và chàng ngâm hai vần kệ:
114. Dưới dòng sông thánh Ya-mu-nà,
Trải tận chân đèo núi Tuyết xa,
Thủ phủ Nà-ga chìm đáy nước,
Là nơi ngự trị chúa Dha-ta.
115. Cũng là cung thất các vương huynh,
Ta sẽ đưa lời ngươi biện minh,
Tùy các vương huynh quyền định đoạt,
Xử ngươi tối hậu thật công bình.
Chàng liền lôi cổ gã đi xềnh xệch cùng lớn tiếng lăng mạ phỉ báng gã cho đến cung môn của bậc Đại Sĩ.
VIII.- BẬC ĐẠI TRÍ BÁC BỎ VỆ ĐÀ
Kànàrittha đã trở thành thần giữ cửa đang ngồi đó, thấy gã kia bị kéo lôi đi một cách thô bạo như thế, liền ra gặp họ và bảo:
– Này Subhàga, đừng làm gã bị thương, tất cả Bà-la-môn đều là con của đấng Đại Phạm thiên; nếu ngài biết ta đang làm con ngài bị thương, ngài sẽ nổi giận và tiêu diệt thế giới Nàga của ta. Trên thế gian này các Bà-la-môn có địa vị cao nhất và thụ hưởng đại vinh danh, vương huynh chưa biết uy danh của họ, nhưng tiểu đệ đã biết rõ lắm.
Vì chuyện kể rằng Kànàrittha trong tiền kiếp ngay trước đời này đã sinh ra làm một Bà-la-môn tế tự, cho nên chàng mới nói quả quyết như vậy. Hơn nữa, nhờ kinh nghiệm của đời trước, chàng rất thông thạo việc tế tự cho nên chàng bảo Subhaga cùng hội chúng Nàga:
– Đến đây ta sẽ tả cho các bạn biết đặc tính Bà-la-môn tế lễ ra sao.
Rồi chàng tiếp tục nói như sau:
116. Vệ-đà và các lễ tế đàn,
Những điều trọng vọng thật cao sang,
Thuộc quyền các vị La-môn ấy,
Cho dẫu họ hèn hạ tận cùng.
117. Đặc quyền họ hưởng đại quang vinh,
Nếu kẻ nào cười nhạo miệt khinh,
Sẽ mất của tiền và phạm luật,
Sống trong tội lỗi thật điêu linh.
Rồi Kànàrittha hỏi Subhaga có biết ai tạo ra thế giới này không, khi Subhaga bảo không biết, chàng liền ngâm kệ bảo rằng thế giới được tạo dựng bởi đấng Phạm thiên, là vị tổ của các Bà-la-môn:
118. Ngài tạo La-môn để học hành,
Tạo dòng Sát-đế-lị điều binh,
Cày bừa, Vệ-xá, và ngài tạo,
Nô lệ Thủ-đà phụng mệnh trên.
Như vậy chúa trời ban thượng lệnh,
Từ thời nguyên thủy đã hình thành.
Kế đó chàng bảo:
– Các Bà-la-môn này có rất nhiều uy lực, ai thân cận với họ và cúng dường họ nhiều lễ vật thì sẽ được ngài định số phận cho khỏi tái sinh mà được ngay thiên giới.
Rồi chàng đọc kệ sau:
119. Ku-ve-ra, So-ma, các thần,
Dhà-tà, Vi-dha, cùng trời, trăng,
Bao phen đã cử hành đàn tế,
Ban các La-môn mọi phước ân.
120. Aj-jun vĩ đại giáng tai ương,
Chi chít ngàn tay mọc khắp thân;
Mỗi cặp tay cầm cung dọa nạt,
Dâng thần lửa lễ vật đầy tràn !
Rồi chàng tiếp tục tả cảnh huy hoàng của các Bà-la-môn cùng các lễ vật tối cao sang phải được đem cúng dường cho họ như thế nào:
121. Cổ tích kể vua nọ cúng dâng,
Thật nhiều, sau hỏa một thiên thần;
Vua Mu-ja mãi thờ thần lửa,
Giải khát lửa bằng bơ tưới tràn,
Thần lửa cuối cùng đem tưởng thưởng,
Ngài tìm ra lối đến thiên cung.
Rồi chàng ngâm các vần kệ này để chứng minh bài thuyết giáo của chàng:
122. Du-ji đã sống trọn ngàn năm,
Xe ngựa, quân hầu, thảy phục tuân,
Ngài chọn cuối cùng đời ẩn sĩ,
Từ am tranh đã đến thiên cung.
123. Sà-ga chiến thắng khắp trần gian,
Dựng trụ vàng dâng lễ tế đàn,
Không ai thờ lửa hơn ngài cả,
Ngài cũng thăng thiên hóa vị thần.
124. Sữa, lạc, An-ga chúa Kà-si,
Cúng dâng liên tục tưới tràn trề,
Làm ngập sông Hằng thành biển cả,
Cuối cùng triều Đế-Thích ngài về.
125. Đại Đế Sak-ka có tướng quân,
Dâng So-ma tửu, được vinh thăng,
Nay ngài nắm giữ bao thần lực,
Từ số phận như mọi thế nhân.
126. Phạm thiên, đại tạo hóa, thành hình,
Ranh giới núi non tại tế đình,
Tuân lệnh ngài, sông Hằng chảy xuống,
Vinh quang ngài đạt bởi hy sinh.
Rồi chàng hỏi anh:
– Này vương huynh, anh có biết tại sao biển cả thành muối mặn không uống được chăng?
– Hiền đệ Arittha, ta không được biết.
– Vương huynh chỉ biết làm tổn hại các Bà-la-môn thôi, này hãy nghe đây.
Rồi chàng ngâm vần kệ:
127. Một ẩn sĩ, thông kệ, chú thần,
Đứng trên bờ biển, đệ nghe rằng:
Chạm vào biển, nó liền ăn sống,
Từ ấy, nước không uống được dần.
Tất cả các Bà-la-môn đều như thế đấy.
Rồi chàng đọc kệ khác:
128. Đế Thích xưa thành đấng Ngọc hoàng,
Đặc ân chiếu xuống Bà-la-môn,
Đông, tây, nam, bắc, đồng dâng lễ,
Nên đượcVệ-đà, họ hưởng phần.
Cứ thế Arittha miêu tả các Bà-la-môn cùng các tế lễ hy sinh và kinh Vệ-đà cho hội chúng Nàga. Nghe vậy nhiều rồng Nàga tìm đến thăm Bồ-tát bên giường bệnh, và bảo nhau:
– Vương tử đang kể chuyện cổ tích.
Rồi dường như có nguy cơ là họ chấp nhận tà thuyết ấy.
Lúc bấy giờ Bồ-tát đang nằm trên sàng tọa nghe hết câu chuyện xong, hội chúng Nàga lại kể cho ngài nghe, ngài suy nghĩ: “Arittha đang kể một chuyện cổ sai lạc, ta phải ngắt lời thuyết giảng của em ta và đem chánh kiến lại cho hội chúng này”. Rồi ngài trở dậy, tắm rửa, trang hoàng châu báu xong liền ngồi trên bảo tọa, tụ tập hội chúng Nàga lại. Ngài cho gọi Arittha đến bảo:
– Này Arittha, hiền đệ đã nói lời sai lầm khi diễn tả các Bà-la-môn và kinh Vệ-đà, vì các tế lễ hy sinh theo nghi thức của kinh Vệ-đà không phải là điều đáng mơ tưởng và nó không thể đưa lối đến thiên giới, hãy nhìn kỹ đây những gì hư vọng trong lời nói của hiền đệ.
Thế rồi ngài ngâm các vần kệ này miêu tả các loại tế lễ hy sinh khác nhau:
129. Vệ-đà là bẫy kẻ khôn ngoan,
Lôi cuốn làm hư hỏng nạn nhân,
Ảo ảnh tạo mê lầm mắt tục,
Song bao bậc trí vượt an toàn.
130. Kinh Vệ-đà không bí lực thần,
Cứu người hèn, phản bội, vô luân,
Lửa kia dù thắp bao năm tháng,
Vô vọng cuối cùng tên chủ nhân.
131. Dù cây toàn cõi đất chồng cao,
Để thỏa nguyện thần lửa khát khao,
Nó vẫn thèm thuồng, khao khát mãi,
Nà-ga mong đáp ứng làm sao?
132. Sữa thường cứ thế biến dần lên,
Bơ, sữa đông là chuyện tự nhiên;
Khao khát đổi thay vầy ngọn lửa,
Càng khơi động, nó mãi cao lên.
133. Lửa không cháy tự gỗ tươi, khô,
Lửa cần nhen nhúm mới bùng to,
Gỗ tươi, khô nếu đều bừng cháy,
Ắt hẳn rừng xanh hóa hỏa lò!
134. Kẻ chất củi, rơm đốt lửa cao,
Đạt nhiều công đức, khác đâu nào,
Đầu bếp nhen lò, hay thợ nguội,
Hoặc người thiêu xác chết kia sao?
135. Chẳng ai cầu nguyện, dẫu thành tâm,
Hoặc chất mồi lên đốt lửa hồng,
Được phước đức gì nhờ tế lễ,
Lửa cao ngất khói cũng tàn dần!
136. Lửa mà bạn nghĩ đáng tôn vinh,
Vậy phải ở cùng rác thối tanh,
Ăn xác chết hân hoan độc ác,
Mọi người kinh tởm vội quay nhanh.
137. Có người tôn kính lửa như thần,
Giống bọn man ri trọng nước sông,
Bọn chúng lạc ra ngoài chánh đạo,
Đều không xứng được gọi thần nhân.
138. Thờ lửa, tôi đòi của thế nhân,
Vô tình, mù điếc trước lời than,
Sống đời ích kỷ đầy lầm lỗi,
Mơ tưởng thiên đường có được chăng?
139. Bà-la-môn ấy muốn làm ăn,
Nên bảo Phạm thiên cúng lửa thần,
Sao Tạo hóa làm ra vạn vật,
Lại thờ tạo vật chính tay làm?
140. Pháp luật hão huyền, phi lý sao,
Tổ tiên ta tưởng đạt sang giàu:
“Học hành ngài tạo La-môn ấy,
Sát- ly cầm quyền lực quý cao.
141-142. – Vệ xá cày bừa mọi đất đai,
Thủ -đà phụng mệnh của bao người,
Từ thời nguyên thủy là như vậy,
Phát xuất tối cao lệnh của trời”.
Ta thấy lệnh này đều áp đặt,
Mắt ta trông đã hiển nhiên rồi.
143. Chỉ các La-môn được tế thần,
Không ai ngoài Sát-ly cầm quân,
Cày bừa Vệ-xá và nô lệ,
Các Thủ-đà kia phải phục tuân.
144. Vọng ngữ tham lam thuyết đảo điên,
Kẻ ngu tin tưởng chuyện hư huyền,
Ai người có mắt nhìn toàn cảnh,
Sao chẳng công bình, hỡi Phạm thiên?
145. Nếu quyền vô hạn khắp nơi nơi,
Sao chính tay ban phúc hiếm hoi,
Sao vật ngài sinh đều chịu khổ,
Sao không ban phúc đến muôn loài?
146. Lừa dối ngu si ở khắp nơi,
Tràn đầy hư vọng, chánh chân vơi,
Phạm thiên là vị bất công quá,
Đã tạo thế gian lắm trái sai.
147. Những kẻ được xem là trắng trong,
Tha hồ giết nhái, rắn, trùng, ong,
Tục này man rợ, ta khinh ghét,
Như thể Kam-bo, bộ lạc rừng.
148-149. Nếu kẻ giết kia được trắng trong,
Nạn nhân cũng được đến thiên đàng,
La-môn hãy giết La-môn sạch,
Như vậy bọn này được lạc an,
Và cả những ai nghe thật kỹ,
Những lời chúng nói thật tà gian.
150. Chẳng thấy bò, dê muốn thiệt thân,
Để mong có cuộc sống cao hơn,
Chúng miễn cưỡng đi vào chỗ chết,
Vẫy vùng tuyệt vọng trút hơi tàn.
151. Bao phủ tế đàn, chuyện sát sinh,
Tuôn lời bóng bẩy tuyệt tài tình:
“Tế đàn như thể con bò mập,
Bảo đảm bao tâm nguyện đạt thành”.
152-153. Nếu củi chất quanh vật tế thần,
Chứa đầy kho báu, họ ca vang,
Bạc, vàng, châu, ngọc cho ta hưởng,
Cùng lạc thiên cung sẽ ngập tràn,
Hẳn họ tế đàn riêng họ hưởng,
Giữ cho mình sản nghiệp giàu sang.
154. Bọn dối lừa, ngu xuẩn, ác gian,
Chuyện dài thêu dệt phỉnh ngu dân:
“Dâng tiền, cắt móng và râu tóc,
Người sẽ được như nguyện thỏa lòng”.
155-156. Thí chủ ngây ngô sẵn nhiệt tình,
Với hầu bao đến, chúng vây nhanh,
Như bầy quạ xúm quanh chim cú,
Tâm hướng về bao chuyện ác hành,
Khiến nạn nhân kia thành sạt nghiệp,
Cuối cùng bị lột sạch sành sanh,
Đồng tiền chắc chắn người kia có,
Đổi lấy hứa suông chẳng thực hành.
157-158. Như bọn lạ tham được lệnh vua,
Tịch thu tài sản đám nông gia,
Bọn này cướp chỗ nào rình rập,
Tìm của với con mắt ác tà;
Không luật lệ nào lên án chúng,
Tuy nhiên chúng phải chết là vừa!
159-160. Tế sư phải nắm nhánh Bu-ta,
Làm lễ tế đàn tự trước kia,
Nó được gọi thay Thiên chủ đấy;
Thế nhưng nếu thật vậy từ xưa,
Phải chăng Thiên chủ In-dra đã,
Chiến thắng được yêu quỷ địch thù?
Tay của trời cho ngài ích lợi,
Có đâu làm quỷ sợ vu vơ?
161-162. Mỗi rặng núi trong quốc độ kia,
Chính là lễ vật tự ngàn xưa,
Đặt lên đàn tế thành từng đống,
Tín chủ đưa tay nhẫn nại ra
Chất lễ vật lên cao tựa núi,
Tuân theo lệnh Đại Phạm thiên mà!
163-164. “Núi được chất cao với lễ dâng”,
Nói như vậy đó các La-môn,
Khoe khoang huyễn hoặc, ôi ô nhục!
Đống gạch kia dù kiếm hết lòng,
Cũng chẳng chứa đâu nguồn mạch sắt,
Để người thợ mỏ phải hoài công.
165. Chuyện kể một hiền thánh thuở xưa,
Đang khi cầu nguyện ở bên bờ,
Bị chìm xuống biển, từ thời đó,
Nước biển không sao uống đến giờ!
166-167. Sông đã nhận chìm các Thánh hiền,
Hằng trăm và nước vẫn bình yên,
Xuôi dòng chảy mãi không hề thối,
Sao chỉ biển xanh giữ hận hiềm?
Nước mặn tràn vào trên mặt đất,
Do người đào, chẳng bởi lời nguyền.
168-169. Trước tiên chẳng có nữ, nam nhân,
Trí óc làm nhân loại sáng dần,
Dòng giống ban đầu bình đẳng cả,
Nhưng vì thành bại đã bao lần,
Làm con người đổi thay ngôi thứ,
Chẳng phải vì xưa thiếu phước ân,
Những lỗi lầm ngày nay đã khiến,
Họ thành ưu thắng hoặc cùng bần.
170. Kẻ hạ đẳng kia dùng trí khôn,
Đọc kinh này, trí chẳng cao hơn,
La-môn tạo Vệ-đà làm hại,
Khi các tha nhân đạt trí thông.
171. Như vẹt, câu ca được thuộc lòng,
Khó quên vì nhịp điệu du dương,
Tối tăm ý nghĩa làm mê mẩn,
Ngu trí nuốt trôi thật bốc đồng.
172. Bà-la-môn chẳng giống thú hoang,
Sư tử, cọp beo của núi ngàn,
Chúng với trâu bò đồng một loại,
Khác ngoài nhưng trí vẫn ngu đần.
173. Nếu vua thắng trận dứt đao binh,
Và sống bình an với bạn mình,
Chế ngự dục tham, theo chánh đạo,
Muôn dân hạnh phúc sống phồn vinh.
174. Vệ-đà, Sát-đế-ly cầm quyền,
Độc đoán cả hai, lại hão huyền,
Mù quáng chúng lần mò tiến bước,
Trên đường hồng thủy ngập liên miên.
175. Vệ-đà, Sát-ly nắm quyền năng,
Thâm nghĩa, chúng ta thảy nhận chân:
Rốt cuộc, nhục vinh hay được mất,
Cùng chung số phận bốn giai tầng.
176. Như các chủ nhà muốn kiếm ăn,
Tính bao nghề tốt đẹp, an toàn,
La-môn nay gặp ngày tàn mạt,
Tìm kế sinh nhai đủ mọi đàng.
177. Chủ nhà lầm lạc bởi tham vàng,
Mù quáng đi theo dục dẫn đàng,
Bày đủ mọi trò lừa đảo ấy,
Kẻ ngu phải đọa! Thác người khôn.
Bậc Đại Sĩ, sau khi đánh tan mọi luận thuyết của họ như vậy, đã thành lập ra giáo phái của ngài và khi hội chúng Nàga nghe ngài thuyết giảng, tâm họ tràn đầy hoan hỷ. Bậc Đại Sĩ cho thả tên Bà-la-môn hạ đẳng kia ra khỏi cảnh giới Nàga mà không hề đá động gì đến gã, dù chỉ bằng một lời nói khinh miệt.
*
Vua Sàgara cũng không lỗi hẹn, vội ngự du cùng binh lính đến nơi trú ngụ của vua cha, sau khi đánh trống báo cho thần dân biết ngài sẽ đi thăm ngoại tổ phụ và quốc cửu, bậc Đại Sĩ du hành qua sông Yamunà, trước tiên ngài ngự đến am ẩn sĩ của tổ phụ với mọi vẻ long trọng huy hoàng, theo sau ngài có đầy đủ các vương tử cùng phụ vương, mẫu hậu ngài.
Lúc ấy vua Sàgara chưa nhận ra bậc Đại Sĩ khi ngài tiến đến cùng đám tùy tùng, liền hỏi vua cha:
178. Chiêng trống nào đây, tiếng nói vang,
Trầm hùng hòa điệu giữa không gian,
Làm tâm Thánh thượng đầy hoan hỷ,
Đàn sáo, tù và, tiếng trống con?
179. Ai là nam tử bước hiên ngang,
Nai nịt cung tên được điểm trang,
Vương miện quanh đầu đang chiếu sáng,
Khác nào ánh chớp tỏa hào quang?
180. Ai đó uy nghi bước đến gần,
Sáng ngời tướng mạo dáng thanh xuân,
Như cành phượng vĩ đang hồng đỏ,
Lò thợ rèn lia cháy sáng bừng?
181. Chiếc lọng của ai sáng sắc vàng,
Làm mờ ngọ nhật vẻ kiêu căng,
Bên sườn khéo léo treo lơ lửng,
Chiếc quạt đập ruồi đợi sẵn sàng?
182. Gậy vàng vung vẫy các đuôi công,
Hòa đủ màu bên cạnh mặt rồng,
Rực rỡ vòng tai tô điểm tóc,
Khác nào tia chớp lóe không trung?
183. Hào kiệt nào đây mắt sáng trong,
Mão long đội giữa đôi mày cong,
Răng trắng như chồi hoa, vỏ ốc,
Hoàn toàn đều đặn, thẳng ngay hàng.
184. Bàn tay hồng đỏ tựa sơn son,
Môi, đóa bim-ba thắm nở tròn,
Chàng trẻ sáng ngời như mặt nhật,
Như sà-la nở rộ đầu non,
In-dra Thiên chủ mang bào giáp,
Chiến thắng quỷ thù thảy dẹp tan.
185. Ai vừa hiện trước nhãn quang ta,
Mở ví bên sườn, tuốt kiếm ra,
Chuôi nạm ngọc vàng đầy kỹ xảo,
Huy hoàng chiếu sáng dưới tay ngà?
186. Ai cởi hài vàng khỏi gót chân,
Hài thêu dệt gấm thật cao sang,
Cuối đầu trịnh trọng trang nghiêm lễ,
Bày tỏ lòng tôn kính Trí nhân?
Khi nghe con của ngài là quốc vương Sàgara Brahmadatta hỏi như vậy, vị ẩn sĩ xuất gia đã chứng đắc thắng trí cùng các Thiên chứng, liền trả lời:
– Này vương nhi, đó là các vương tử của vua Dhatarattha, các Long vương Nàga của bào muội của con đó.
Rồi ngài ngâm kệ sau:
187. Dha-ta vương tử các chàng đây,
Uy lực, vinh quang vĩ đại thay,
Tất cả đều tôn sùng chấp nhận,
Sa-mud-da mẫu hậu chung này.
Trong lúc các vị đang đàm đạo, hội chúng Nàga đến nơi, đảnh lễ dưới chân vị ẩn sĩ, rồi ngồi xuống một bên. Công chúa Samuddajà cũng đảnh lễ cha xong, khóc lóc một hồi rồi từ tạ cùng hội chúng Nàga trở lại cảnh giới của mình. Quốc vương Sàgara ở lại đó vài hôm rồi trở về thành Ba-la-nại. Còn công chúa Samuddajà về sau qua đời tại cảnh giới Nàga.
Phần Bồ-tát vẫn giữ giới suốt đời Ngài và tu tập đủ mọi công hạnh trong ngày trai giới, nên khi mạng chung, ngài cùng với hội chúng Nàga đi lên thiên giới thật đông đảo.
*
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Đạo Sư dạy:
Như vậy các vị Thánh đệ tử, các bậc hiền nhân ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời, đã từ bỏ mọi vinh quang của quốc độ Nàga và trang nghiêm hành trì các công hạnh trong ngày trai giới.
Rồi ngài nhận diện Tiền thân:
Vào thời ấy, gia tộc của Đại vương là cha mẹ Ta, Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) là gã Bà-la-môn hạ đẳng, Ànanda (A-nan) là Somadatta, Uppalavannà (Liên hoa Sắc) là Accimukhì, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Sudassana, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Subhaga, Sunakkhatta là Kànàrittha và Ta chính là bậc Đại trí Bhùridatta.
-ooOoo-