[183] KINH NHÂN DUYÊN CHẲNG ĂN THỊT DO TÂM TỪ CỦA NHẤT THIẾT TRÍ QUANG MINH TIÊN NHÂN

Đại Tạng Kinh _ Tập 03 _No.183

KINH NHÂN DUYÊN CHẲNG ĂN THỊT
DO TÂM TỪ CỦA NHẤT THIẾT TRÍ QUANG MINH TIÊN NHÂN

Hán dịch: Mất tên người dịch. Nay phụ bản ghi chép của đời Tần
Việt dịch: HUYỀN THANH

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật trụ tại tịnh xá Tự Tại Thiên Từ ở thôn Di Gia Nữ, Đạo Trường Tịch Diệt thuộc nước Ma Già Đề

Thời có người con của vị Bà La Môn Ca Ba Lợi (Kalpali) tên là Di Lặc (Maitreya) có thân thể màu vàng ròng với 32 tướng 80 vẻ đẹp, phóng ánh sáng bạc xen kẽ tô điểm màu vàng như núi bạc trắng (bạch ngân sơn), uy quang vô lượng, đi đến chỗ của Đức Phật.

Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Khưu (Bhikṣu) đang Kinh Hành (Caṅkramana) trong rừng. Lại có năm trăm người của Phạm Chí (Brāhmaṇa: Bà La Môn) búi tóc, từ xa nhìn thấy Di Lặc có uy nghi an tường, tướng tốt trong sạch, cúi năm vóc sát đất như núi bạc sụp xuống, thành đống hoa vàng với mọi báu xen kẽ rực rỡ. Hoa vàng, đài vàng, bảy báu làm quả trái, ở trong đài các có âm thanh màu nhiệm…rồi nói Kệ rằng:

“Con thấy Mâu Ni Tôn (Muṇi-nātha) Diện mạo thường thanh tịnh

Trăm tướng Phước đặc biệt Thế Gian không ai bằng Tận hết phiền não dơ
Trí Tuệ đều thành mãn

Một hướng thường quy mệnh Thân Tâm không mệt mỏi Nên Con cúi năm vóc

Muốn được Thắng An Lạc Thoát khổ không còn sợ
Kính lễ Thích Ca Văn (Śākyamuṇi)”

_ Thời các vị Phạm Chí thấy nghe việc này, liền bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Như vị Đồng Tử này có uy nghi an tường, ánh sáng vộ lượng cùng với Đức Phật không có khác, ở chỗ của Đức Phật, bắt đầu phát Tâm Đạo, thọ trì Kinh gì ? Nguyện xin Đấng Thiên Tôn (Deva-nātha) vì con giải nói”.

Đức Phật bảo Phạm Chí Thức Kiền: “Nay ông hãy lắng nghe ! Hãy khéo nghĩ nhớ ! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói, khiến cho ông vui vẻ.

Ở thời quá khứ, cách nay vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, có Thế Giới tên là Thắng Hoa Phu, Đức Phật hiệu là Di Lặc (Maitreya) luôn dùng Tâm Từ (Maitra-citta), bốn Pháp vô lượng, giáo hóa tất cả. Đức Phật ấy nói Kinh tên là Từ Tam Muội Quang Đại Bi Hải Vân, nếu có ai nghe thấy, liền được vượt qua tội sinh tử trong trăm ức vạn kiếp, ắt được thành Phật không có nghi ngờ.

Thời trong nước ấy có vị Đại Bà La Môn tên là Nhất Thiết Trí Quang Minh, là bậc thông tuệ nhiều Trí, rộng thông hiểu mọi Kinh, kỹ nghệ của Thế Gian, 64 khả năng, không có thứ gì chẳng thông thạo. Nghe Đức Phật ra đời, nói Kinh Từ Tam Muội Quang Đại Bi Hải Vân, liền dùng tất cả nghĩa luận của Thế Gian chất vấn Đức Phật ấy nhưng chẳng thể khuất phục được. Tức liền tin phục xin làm Đệ Tử của Đức Phật, tìm cầu Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác) rồi nói lời này: “Nay con ở trong Phật Pháp, tụng trì Kinh Đại Từ Tam Muội Quang Đại Bi Hải Vân. Dùng Công Đức này, nguyện ở thời vị lại vượt hơn số Kiếp tính đếm được, ắt thành Phật có hiệu là Di Lặc (Maitreya)”.

Khi ấy rời bỏ nhà, liền vào núi sâu, để tóc dài làm tướng, tu hành Phạm Hạnh (Brahma-caryā) trong tám ngàn năm, ít ham muốn không có thay đổi, xin ăn để nuôi mạng sống, tụng trì Kinh đó, Nhất Tâm trừ tán loạn.

Thời đó, Thế Gian có Vũ Tinh xuất hiện, quốc vương hoang dâm, Tuệ Tinh (sao chổi) quét ngang, mưa liên tục chẳng dứt, nước đột ngột dâng cao…

Tiên Nhân ngồi ngay thẳng, chẳng đi xin ăn được, trải qua bảy ngày thời trong khu rừng ấy có 500 con thỏ trắng, có hai con thú là mẹ con thỏ vua, nhìn thấy Tiên Nhân bảy ngày chẳng ăn, nên nói lời này: “Nay vị Tiên Nhân này vì Phật Đạo cho nên nhiều ngày chẳng ăn, ắt mạng chẳng kéo dài được. Cây Phướng Pháp (Dharma-dhvaja, hay Dharma-ketu) sắp sụp đổ, biển Pháp (Dharma-sāgara) sắp khô cạn. Nay Ta sẽ vì Đại Pháp vô thượng, khiến cho Ngài trụ lâu xa, mà chẳng tiếc thân mệnh”
Liền bảo các con thỏ: “Tất cả các Hành (Saṃskāra) thảy đều không có thường. Chúng sinh yêu thương thân mình, sống hão chết hão, chưa từng vì Pháp. Nay Ta muốn vì tất cả chúng sinh làm cây cầu lớn khiến cho Pháp trụ lâu, nên cúng dường Pháp Sư”

Bấy giờ vua thỏ liền vì đám thỏ mà nói Kệ rằng: “Nếu có loài Súc Sinh

Được nghe tên chư Phật Lìa hẳn ba đường ác Chẳng sinh chốn tám nạn Nếu nghe Pháp phụng hành Sinh ra thường gặp Phật Tin Pháp không nghi ngờ Quy y Hiền Thánh Tăng Tùy thuận các Giới Hạnh Như vậy mau thành Phật

Ắt đến Đại Niết Bàn (Mahā-nirvāṇa) Thường nhận vui vô thượng”
Khi ấy vua thỏ nói Kệ này xong, liền bảo các con thỏ rằng: “Nay Ta đem thân, muốn cúng dường Pháp, các ngươi thích hợp nên mỗi mỗi đều tùy vui. Tại sao thế ? Vì Ta từng ở nhiều Kiếp chôn thân vô số, ba Độc đã sai khiến làm hình chim thú, sống không có căn cứ, chết không có căn cứ, chưa từng vì Pháp. Nay Ta muốn vì Pháp vô thượng cho nên vứt bỏ thân mệnh cúng dường Pháp Sư”

Thời vị Thần cây núi liền gom củi thơm lại, rồi nhóm lửa. Mẹ con thỏ vua nhiễu quanh bàn chân của Tiên Nhân đủ bảy vòng, rồi bạch rằng: “Đại Sư ! Nay con vì Pháp, xin cúng dường Tôn Giả”

Tiên Nhân bảo rằng: “Ngươi là súc sinh, tuy có Tâm Từ (Maitra-citta) nhưng do Duyên nào mà có thể làm như thế ?”

Thỏ thưa với Tiên Nhân: “Con tự đem thân của mình cúng dường Nhân Giả (Jina) vì muốn Pháp trụ lâu, khiến cho chúng sinh được nhiêu ích”

Nói lời đó xong, liền bảo thỏ con rằng: “Con có thể tùy ý tìm kiếm cỏ, nước…cột buộc Tâm suy nghĩ, chính niệm Tam Bảo”.

Lúc đó thỏ con nghe điều mẹ đã nói, liền quỳ xuống thưa với mẹ rằng: “Như mẹ đã nói vì Đại Pháp vô thượng nên muốn cúng dường. Con cũng nguyện vui”

Nói lời này xong, liền tự nhảy vào trong lửa, thỏ mẹ tùy theo sau nhảy vào.

Ngay lúc Bồ Tát buông bỏ thân thời Trời Đất chấn động lớn, cho đến Sắc Giới (Rūpa-dhātu) cùng với chư Thiên đều tuôn mưa hoa Trời, cầm lấy cúng dường. Sau khi thịt chín thời vị Thần cây núi bạch với Tiên Nhân rằng: “Mẹ con thỏ vua vì cúng dường cho nên ném thân vào trong lửa. Nay thịt đã chín, Ngài có thể ăn”

Thời Tiên Nhân ấy nghe vị Thần cây nói, thời buồn bã chẳng nói nên lời. Đem Kinh đã tụng viết lên lá cây, lại nói Kệ rằng:

“Thà ngay thân này phá con mắt Chẳng nỡ giết hại, ăn chúng sinh Chư Phật đã nói Kinh Từ Bi

Trong Kinh ấy nói thực hành Từ (Maitra) Thà phá xương tủy rời đầu, não

Chẳng nỡ nuốt thịt, ăn chúng sinh Như Phật đã nói kẻ ăn thịt Người này hành Từ chẳng đầy đủ
Thường bị đoản mệnh, thân nhiều bệnh Mê đắm sinh tử, chẳng thành Phật”
Khi Tiên Nhân ấy nói Kệ này xong, nhân đây phát lời Thề rằng: “Nguyện Ta đời đời chẳng khởi tưởng giết chóc, luôn chẳng ăn nuốt thịt, vào Bạch Quang Minh Từ Tam Muội cho đến thành Phật, đặt ra Giới Đoạn Nhục”

Nói lời này xong, tự ném mình vào trong lửa, cùng với thỏ vứt bỏ mạng.

Lúc đó Trời Đất chấn động theo sáu cách. Do sức của Thiên Thần cho nên cây phóng ra ánh sáng màu vàng ròng rực rỡ chiếu soi hàng ngàn cõi nước.

Thời các người dân trong nước ấy thấy ánh sáng màu vàng ròng phát ra từ cây trên núi, liền lần theo ánh ánh đi đến. Đã thấy Tiên Nhân cùng với hai con thỏ chết ngay trong lửa. Thấy bài Kệ đã nói kèm được Kinh Phật, nên cầm lấy quay về dâng lên Đức Vua.

Đức vua nghe Pháp này, liền truyền bá lưu hành, khiến cho người nghe được việc này đều phát Tâm Vô Thượng Chính Chân Đạo”

_ Đức Phật bảo Thức Kiền: “Nay ông nên biết ! Vua thỏ trắng thời ấy, hiện nay là thân Ta Thích Ca Văn Ni Phật. Thỏ con đó nay là La Hầu La (Rāhula).Tiên Nhân tụng kinh đó nay là người con Bà La Môn ở trong Chúng này, là Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát. Sau khi Ta vào Niết Bàn 56 ức vạn năm, (Di Lặc) sẽ ở cõi nước của Chuyển Luân Thánh Vương Nhương Khư (Śaṅkha) ngồi tại tòa Kim Cương trong vườn Hoa Lâm dưới cây Bồ Đề Long Hoa (Nāga-puṣpa) được thành Phật Đạo, chuyển bánh xe Pháp màu nhiệm.

Năm trăm con thỏ đó nay là 500 vị Tỳ Khưu thuộc nhóm Ma Ha Ca Diếp (Mahā-kāśyapa). Hai trăm năm mươi vị Thần cây núi đó là 250 vị Tỳ Khưu thuộc nhóm Xá Lợi Phất (Śāriputra), Mục Kiền Liên (Maudgalyāyana). Một ngàn vị quốc vương đó là 1000 vị Bồ Tát thuộc nhóm Bạt Đà Bà La (Bhadra-pāla). Các người dân trong cõi nước của vị vua ấy được nghe Kinh, từ khi Ta ra đời cho đến Lâu Chí (Rucika, hay Rudita), ở khoảng trung gian ấy là Đệ Tử thọ Pháp đắc Đạo vậy”

_ Đức Phật bảo Thức Kiền: “Bồ Tát cầu Pháp, siêng năng cực khổ trải qua nhiều Kiếp chẳng tiếc thân mệnh. Tuy lại theo sự báo ứng, thọ nhận thân súc sinh nhưng thường vì Pháp chẳng tiếc thân mệnh, nhảy vào hầm lửa, dùng thân cúng dường, liền được vượt qua tội sinh tử trong trăm vạn ức kiếp. Lúc đó được ở ngay trước mặt hằng hà sa đẳng vô lượng chư Phật. Thoạt tiên ở trước mặt Di Lặc được thành Phật Đạo. Vì sao các ông chẳng siêng năng vì Pháp ?”

Đức Phật nói lời ấy thời 500 vị Phạm Chí thuộc nhóm Thức Kiền cầu xin Đức Phật cho xuất gia

Đức Phật nói : “Lành thay !” thì râu tóc tự rơi xuống, liền thành Sa Môn (Śramaṇa). Đức Phật vì họ nói Pháp, đột nhiên Ý hiểu biết, thành A La Hán (Arhat). Tám vạn chư Thiên cũng phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.

Thời Đại Chúng trong Hội nghe điều Đức Phật đã nói, mỗi mỗi đều xưng tán chỗ Hành của Bồ Tát.

_ Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Khi bị Tiên Nhân ấy nhảy vào hầm lửa xong thời được sinh về chốn nào?”

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: “Khi vị Tiên Nhân ấy nhảy vào hầm lửa xong thời sinh ở Phạm Thế khắp vì tất cả nói Pháp Đại Phạm cho đến thành Phật chuyển bánh xe Đại Phạm, Kinh Điển đã nói cũng có tên là Từ Tam Muội Quang Đại Bi Hải Vân. Đã đặt ra Ba La Đề Mộc Xoa (Pratimokṣa): Người chẳng thực hành Từ (Maitra) thì gọi là người phạm Cấm, người ăn thịt ấy thì phạm vào Trọng Cấm, thân sau sinh ra thường uống nước đồng nóng bỏng… đến khi vị Tiên Nhân ấy được thành Phật thời như Kinh Di Lặc Bồ Tát Hạ Sinh nói”

_ Tôn Giả A Nan nghe điều Đức Phật đã nói, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, chéo bàn tay, quỳ thẳng lưng rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Di Lặc thành Phật đã nói Giới Pháp liền đem Tâm Từ đặt ra sự chẳng ăn thịt làm Trọng Cấm vi phạm, thật là lạ lùng ! thật là đặc biệt !” Thời Đại Chúng trong Hội khác miệng đồng âm, đều cùng nhau khen ngợi Giới chẳng ăn thịt của chúng sinh trong nước ấy “Nguyện sinh về nước ấy”. Đức Phật đều
thọ ký sẽ được vãng sinh.

_ Tôn Giả A Nan lại bạch Phật rằng: “Nên dùng tên nào gọi Kinh này ? Thọ trì như thế nào?”

Đức Phật bảo A Nan: “Thiết yếu của Pháp này có tên là Bồ Tát Bạch Thỏ Vương (vua thỏ trắng) chẳng tiếc thân mệnh vì Đạo vô thượng, cũng có tên gọi là Kinh Nhân Duyên chẳng ăn thịt do Tâm Từ của Nhất Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân. Như vậy mà thọ trì”

_ Tôn Giả A Nan với các vị Tỳ Khưu nghe điều Đức Phật đã nói, đều vui vẻ phụng hành.

KINH NHÂN DUYÊN CHẲNG ĂN THỊT
DO TÂM TỪ CỦA NHẤT THIẾT TRÍ QUANG MINH TIÊN NHÂN
_Hết_
03/04/2012

Add Comment